CÁI NHÌN “VƯỢT THỜI GIAN” CỦA THÁNH PHANXICÔ ASSISI
VỀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ
I. DẪN NHẬP
Bí tích thánh thể là nguồn mạch ơn cứu độ, được Chúa Giêsu thiết lập và Giáo Hội cử hành trong hơn hai ngàn năm qua. Nhưng những gì Giáo Hội tin và hiểu về Bí tích Thánh Thể lại có nhiều thăng trầm trong suốt dòng chảy của lịch sử ấy.
Nếu như các Kitô hữu tiên khởi có một niềm tin mãnh liệt vào Thánh Thể và sống kinh nghiệm sâu sắc về bí tích này, thì bước sang thời Trung cổ do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng về Bí tích Thánh Thể, nên càng ngày Giáo Hội càng đánh mất kinh nghiệm sống động của Nhiệm Tích này. Hậu quả của nó là các Kitô hữu thời Trung cổ ngày càng xa cách với Bí tích Thánh Thể; Thánh Thể chỉ là bí tích để họ chiêm ngắm và thờ lạy, chứ không phải là thứ lương thực hằng ngày mang lại ơn cứu độ cho con người. Trong bối cảnh đó, chúng ta thấy thánh Phanxincô lại có những cách hiểu, cách sống Bí Tích Thánh Thể rất hợp với Tin Mừng và quan điểm của Giáo Hội hiện nay về Bí tích Thánh Thể. Phải chăng đây là cái nhìn “vượt thời gian” của ngài về Bí tích trung tâm của đời sống Giáo Hội?
Từ vấn nạn đó, người viết trở về với các Di Cảo của thánh Phanxicô để tìm hiểu niềm tin yêu và cách sống Bí tích Thánh Thể của ngài, và đối chiếu với nhãn quan thần học về Bí tích Thánh Thể hiện nay, nhằm giúp cho bản thân có được sự xác tín sâu xa hơn về niềm tin của mình vào Thánh Thể, và sống mãnh liệt hơn Bí tích Tình Yêu mà mình chiêm ngắm và cử hành mỗi ngày.
Nhân dịp mừng lễ thánh Phanxicô năm nay, cũng là dịp Anh Chị Em Phan Sinh Việt Nam cử hành bế mạc Năm Thánh Phan Sinh “80 năm hiện diện trên Đất Việt”, xin được chia sẻ cùng ban đọc gần xa.
II. CÁI NHÌN “VƯỢT THỜI GIAN” CỦA THÁNH PHANXICÔ VỀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Thánh Phanxicô không phải là nhà thần học theo nghĩa chặt, nhưng khi chiêm ngắm cuộc đời và cách thức ngài sống đức tin, chúng ta nhận thấy ngài có nhiều cái nhìn trực giác mang tính “vượt thời gian” về thần học. Trong số đó, cách hiểu và thực hành Bí tích Thánh Thể của ngài là một cái nhìn đặc sắc và rất có ý nghĩa với chúng ta hôm nay.
1. Bối cảnh của Bí tích Thánh Thể trong thời đại thánh Phanxicô
Thánh Phanxicô sinh vào thế kỷ 12 và sống trong thượng bán thế kỷ 13. Trong thời kỳ đầu của lịch sử Trung cổ Phương Tây, xã hội Ý đang có nhiều biến chuyển về mọi mặt. Giáo Hội Rôma đã chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng sâu rộng liên quan đến Bí tích Thánh Thể, được manh nha từ thế kỷ VI. Chúng ta thấy, Công đồng Latêranô IV, công đồng mà thánh Phanxicô tham dự, đã rất quan tâm đến cuộc khủng hoảng này.
Cuộc khủng hoảng này chủ yếu diễn ra do các tín hữu không còn chuyên cần tiếp rước Thánh Thể, nhưng lại đề cao việc tôn thờ và chiêm ngắm: “Người ta bắt đầu đặt ra nghi thức nâng cao Mình Thánh Chúa ngay sau khi truyền phép để dân chúng thờ lạy…nên việc rước lễ hằng ngày, đã được đức Giáo Hoàng Grêgôriô VII cổ võ ở thế kỷ trước không còn phổ biến” [1]. Tình trạng thờ ơ với Thánh Thể còn thể hiện nơi hàng giáo sĩ Công giáo lúc bấy giờ: “Công đồng Latêranô cũng đã cảnh cáo các giáo sĩ nhất là các giáo sĩ cao cấp, “cử hành thánh lễ mỗi năm không quá bốn lần, và tệ hơn nữa là không tham dự thánh lễ” [2]. Có lẽ vì cơn khủng hoảng này mà Công đồng đã đưa ra luật: Xưng tội ít nhất mỗi năm một lần và rước lễ trong mùa Phục Sinh.
Nguyên nhân chính dẫn đến cuộc khủng hoảng này là do nhiều người Kitô hữu buông thả trong đời sống luân lý và tôn giáo và quên lãng nhân tính của Đức Kitô. Từ đó người ta có xu hướng xa rời Bí tích Thánh Thể: “Các Kitô hữu chỉ xem Thánh Thể như một ‘mầu nhiệm đáng kính sợ, vì chỉ nhìn thấy Đức Kitô như là Thiên Chúa toàn năng, vị Chúa tể, vị Thẩm phán tối cao của vũ trụ, nên họ đã quên rằng Đức Kitô cũng là một con người, là người Anh, người Bầu Chữa cho họ trước toà Chúa” [3].
Trong bối cảnh của sự sợ hãi và tôn kính cực độ, việc rước lễ đối với tín hữu không còn là một sự tham dự vào hy tế của Đức Kitô, nhưng trở thành một phần thưởng ban cho những tâm hồn trong sạch. Từ đây nảy sinh một hướng linh đạo mới cũng góp phần làm giảm việc rước lễ: rước lễ được xem là nguyên lý để đạt đến sự trọn lành cá nhân. Và như thế việc rước lễ càng lúc càng được xem như độc lập với hy tế thánh giá.
Càng ngày, người ta càng xa lìa Bí tích Thánh Thể và hậu quả là những lạm dụng và những dị đoan về Thánh Thể: “Có người tin rằng chỉ cần nhìn lên Mình Thánh khi linh mục giơ lên cũng có sức xua trừ bệnh tật hoặc chết chóc, hoặc đem lại vận may” [4].
Đứng trước bối cảnh đó, thánh Phanxicô không bị cuốn hút vào xu hướng của người đương thời, trái lại ngài có được một cách hiểu và thực hành mang tính trung thành và sáng tạo về Bí tích Thánh Thể. Chúng ta nhận thấy điều đó nơi các Di cảo của ngài.
2. Bí tích Thánh Thể trong Di Cảo của thánh Phanxicô
Trong các Di cảo của thánh Phanxicô, chúng ta thấy nhiều lần ngài đề cập đến Bí tích Thánh Thể. Ngài dùng cụm từ“Mình và Máu Thánh Chúa” 18 lần, để chỉ về Bí tích Thánh Thể. Trong số các Di cảo, thì Huấn ngôn I, diễn tả cái nhìn cốt lõi của Phanxicô về Bí tích Thánh Thể. Giống như các Huấn ngôn khác, người ta không thể xác định được tính xác thực và niên đại của Huấn ngôn I; nhưng đây là một viên ngọc quý, là đầu mối giúp chúng ta khám phá ra cái nhìn của Phanxicô về Bí tích Thánh Thể. Theo các học giả Phan sinh thì, các bản văn của thánh Phanxicô không phải là những thiên khảo luận thần học tín lý, nhưng đó là những bản văn được viết theo yêu cầu của hoàn cảnh. Riêng các huấn ngôn thì tác giả Kajatan Esser cho rằng: “Các huấn ngôn là những lời chỉ giáo và khích lệ của Phanxicô. Tất cả được ra đời từ các hoàn cảnh khác nhau trong cuộc sống đời thường của anh em. Đó là những viên ngọc quý báu chỉ dẫn con đường khôn ngoan thiêng liêng” [5].
Sau khi phân tích Huấn ngôn I về mặt văn chương và đạo lý, tác giả Nobertô Nguyễn Văn Khanh nhận xét: “Tảng đá làm nền tảng cho huấn ngôn này là lời tuyên bố của Đức Kitô: ‘Thầy là Đường, là Sự Thật và là sự Sống’. Đức Kitô là Đấng mặc khải, dẫn đưa con người đến cùng Chúa Cha. Tuy nhiên cúng ta không còn có thể gặp Đức Kitô trong con người Giêsu như xưa, nhưng chỉ có thể gặp Người trong phép Thánh Thể” [6]. Ngoài ra, thánh Phanxicô cũng đã đề cập đến Bí tí Thánh Thể trong Di chúc, trong các thư gởi tín hữu, thư gởi các giáo sĩ, thư gởi toàn dòng mà chúng ta sẽ đề cập tới trong bài viết này.
Các di cảo kể trên là nền tảng giúp chúng ta hiểu hơn quan điểm của thánh Phanxicô về Bí tích Thánh Thể. Theo đó, cái nhìn chính yếu của ngài xoay quanh cách hiểu và cách sống Bí tích Thánh Thể.
3. Cách hiểu của Phanxicô về Bí tích Thánh Thể
Trong bối cảnh của Giáo Hội Tây phương Trung cổ, các giáo sĩ và giáo dân đang đánh mất kinh nghiệm thiêng liêng về Bí tích Thánh Thể qua việc bỏ rước lễ và quên dần tính Hy tế của Thánh thể, thánh Phanxicô đã có những cách hiểu và thực hành rất hợp với Tin Mừng và truyền thống của các Kitô hữu sơ khai. Cách hiểu của ngài rất gần gũi với quan điểm thần học hiện đại về bí tích này.
3.1. Bí tích Thánh Thể nối tiếp mầu nhiệm nhập thể
Sinh thời, khi đứng trước mầu nhiệm Nhập thể của Con Thiên Chúa làm người, thánh Phanxicô thường ngất ngây và mê say mầu nhiệm ấy. Sử gia Tô-ma Cêlanô kể lại:
“Thánh Phanxicô thường mừng đại lễ Giáng sinh của Chúa Hài Đồng với một niềm vui bao la. Ngài cho rằng đó là ngày Lễ của các lễ. Ngài thường hôn kính háo hức các bức ảnh Chúa Hài Đồng và lòng cảm thương nồng nàn đối với Hài Nhi Giêsu, khiến ngài lắp bắp thốt ra những lời âu yếm như trẻ thơ bập bẹ. Danh thánh Chúa ngọt ngào như mật ong trong miệng ngài” [7].
Từ cảm nghiệm sâu xa này ngài đi đến việc so sánh việc Đức Giêsu đến trên bàn thờ mỗi ngày với việc người đến trong cung lòng Đức Trinh nữ Mria năm xưa: “Này đây hằng ngày Người hạ mình xuống (x. Pl 2,8) như xưa Người rời ngai vàng (x. Kn 18,15) mà đến trong lòng Đức Trinh Nữ. Hằng ngày Người đến với chúng ta một cách khiêm nhường. Hằng ngày Người rời cung lòng Chúa Cha (x. Ga 1,18) để ngự xuống trên bàn thờ, trong tay linh mục” [8].
Thánh Phanxicô xem hành vi truyền phép của linh mục trên bàn thờ như lần nhập thể mới của Đức Giêsu. Ngài từ cung lòng của Chúa Cha đến ngự trong cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria. Và như thế “khi nhìn thấy Mình Thánh Chúa, thánh Phanxicô nghĩ đến Đức Kitô sinh ra từ Đức Trinh Nữ Maria. Bàn thờ giống như máng cỏ, nơi đó Con của Chúa Cha đến với loài người hôm nay” [9]. Để rồi từ bàn thánh đó chúng ta cũng được cưu mang Con Thiên Chúa như là mẹ của Ngài khi tiếp rước Thánh Thể.
Cái nhìn này về sau được Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II triển khai rõ hơn trong Thông điệp Ecclesia de Eucharistia:
“Khi truyền tin, Đức Maria cưu mang Con của Thiên Chúa trong thực tại thể lý là Mình và Máu Người, vì thế thể hiện trước trong chính bản thân Ngài điều xẩy ra cách bí tích ở một mức độ nào đó nơi mọi tín hữu rước Mình Máu Chúa dưới hình bán rượu” [10].
Một cái nhìn thể lý về Thánh Thể là điều mà thánh Phanxicô quan tâm. Ngài cũng đã ví việc chúng ta chiêm ngắm và đón nhận Thánh Thể như là lúc chúng ta tiếp xúc trực tiếp với Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt giống các tông đồ ngày xưa, và nhờ Thánh Thần soi dẫn chúng ta tin Ngài đang diện diện cụ thể với chúng ta:
“Như xưa, con mắt xác thịt của các thánh Tông đồ chỉ trông thấy thân xác của Người, nhưng các ngài tin rằng Người là Thiên Chúa, vì các ngài chiêm ngắm Người với con mắt được Thánh khí soi dẫn. Ngày nay cũng thế, khi con mắt xác thịt của chúng ta trông thấy bánh và rượu, chúng ta hãy biết nhìn ra và tin vững đó là Mình và Máu cực thánh, hằng sống và chân thật của Người. Đó là phương thế Chúa dùng để ở mãi với các tín hữu như chính Người đã nói: “Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (x. Mt 28,20)” [11].
Tóm lại, theo thánh Phanxicô Bí tích Thánh Thể như phương thế để Chúa Kitô tỏ mình ra cho chúng ta và ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế như Ngài đã hứa. Đây là một sự tiếp nối mầu nhiệm Nhập thể của Con Thiên Chúa và kèo dài mầu nhiệm ấy trong lịch sử và cuộc sống của con người, để rồi từ đó Phanxicô liên tưởng tới mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô.
3.2. Bí tích Thánh Thể là nghi thức tưởng niệm cuộc vượt qua của Chúa Kitô
Một cách hiểu tiếp theo của thánh Phanxicô về Bí tích Thánh Thể là nghi thức tưởng niệm cuộc vượt của Chúa Kitô. Đầy là một tưởng niệm có giá trị mang lại ơn cứa độ cho chúng ta. Cái nhìn này thể hiện qua các điểm nhấn khác nhau của ngài.
* Bí tích Thánh Thể là hy tế cứu chuộc của Giao ước mới
Chúng ta thấy trong Di cảo, thánh Phanxicô dùng đến các từ Hy lễ (Sacrificium) và Hiến tế (Sacrificare) , để chỉ Bí tích Thánh Thể và việc cử hành Thánh Thể [12]. Đó là những bằng chứng cho ta thấy Phanxicô tin Thánh Thể như một hy lễ.
Thêm nữa, trong các bản văn đề cập đến Bí tích Thánh Thể, Phanxicô không dùng từ Thánh Thể, nhưng ngài dùng từ“Mình và Máu Chúa” . Điều này diễn tả hy tế trong các Giao ước giữa con người và Thiên Chúa. Chính thánh Phanxicô cũng đã nói nhiều đến “Máu của Giao ước”, “Giao ước mới”, “Mình và Máu của Giao ước mới” . Đây cũng là những bằng chứng rõ ràng, giúp chúng ta hiểu về tính chất Giao ước của Bí tích Thánh Thể mà Phanxiô đã bàn tới. Quan điểm thần học này quả là mới lạ trong thời đại của ngài, nhưng nó lại là một đề tài đã hấp dẫn các thần học Công đồng Vaticanô II và hậu Công đồng khi họ bàn về Bí tích Thánh Thể. Mới đây nhất, Tông huấn hậu thượng Hội đồng Giám mục, Sacramentum Caritatis đã đề cập tới:
“Thật là ý nghĩa khi cùng những lời đó đã được lặp lại trong mỗi lần cử hành Thánh Lễ, lúc linh mục mời gọi chúng ta tiến đến bàn thờ: ‘Đây Chiên Thiên Chúa Đấng xoá tội trần gian. Phúc cho ai được mời đến dự bữa tiệc của Người.’ Chúa Giêsu là con chiên vượt qua đích thực đã tự nguyện hiến mình để cứu chuộc chúng ta, và vì thế đã thực hiện giao ước mới và vĩnh cửu. Bí Tích Thánh Thể chứa đựng tính mới mẻ trọn vẹn được ban cho chúng ta mỗi khi cử hành. (19)” [13].
* Bí tích Thánh Thể là nghi thức tưởng niệm tình yêu của Chúa Giêsu.
Thánh Phanxicô quan niệm rằng, vì yêu thương nhân loại, Chúa Cha đã ban Bí tích Thánh Thể cho loài người để họ tiếp nhận Con của Người, Đấng cứu chuộc họ, nên Ngài đã nhắc nhở mọi người cử hành Bí tích Thánh Thể với ý hướng ngay lành và thánh thiện: “Anh em hãy tiến dân hy lễ chân thật là Mình và Máu cực thánh Chúa Giêsu Kitô một cách cung kính với ý hướng thánh thiện và tinh tuyền...Nhờ ơn Chúa giúp anh em hãy quy hướng mọi tâm tư, tình cảm về Thiên Chúa Tối cao, chỉ ước ao làm đẹp lòng một mình Người mà thôi” [14]. Đây là một lời khuyên giúp các tín hữu đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Thầy”. Nó liên hệ đến nghi thức tưởng niệm Chúa Kitô trong thánh lễ. Theo thánh Phanxicô đây là một sự tưởng niệm mang tính sống động về sự hiện diện của Đức Kitô.
Với cái nhìn khá tinh tế về Thánh Thể, thánh Phanxicô luôn nghĩ đến việc kết hợp với Chúa Kitô Thánh Thể. Chính ngài thường rước lễ một cách sốt sắng và lòng sùng kính này của ngài lôi cuốn được nhiều người. Khi rước lễ, ngài bày tỏ tất cả sự tôn kính phải có đối với bí tích cao siêu ấy [15].
Hơn nữa, ngài đã nhiều lần nhắc đến lệnh truyền của Đức Kitô: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Và như thế, cử hành Thánh Thể là việc chúng ta đáp lại lời Chúa Giêsu và tham dự vào hy lễ thập giá của Ngài. Đó là việc tưởng niệm tình yêu cứu chuộc của Chúa Giêsu năm xưa: “Đối với thánh Phanxicô, bánh Thánh Thể là lương thực hằng ngày để tưởng nhớ đến tình yêu của Đức Kitô, đã biểu lộ trong toàn bộc cuộc sống trần gian của Người và đỉnh cao nhất là cây thánh giá” [16].
* Bí tích Thánh Thể biểu hiện tình hiệp thông huynh đệ
Bí tích Thánh Thể là nghi thức tưởng niệm tình yêu của Chúa Kitô, nên được thánh Phanxicô quan niệm là biểu tượng hằng đầu của tình hiệp thông và yêu thương huynh đệ.
Chúng ta biết, vào đại của thánh Phanxicô mỗi linh mục chỉ được quyền làm lễ riêng mỗi ngày, chưa có thánh lễ đồng tế. Nhưng thánh Phanxicô muốn mỗi ngày có một thánh lễ chung trong cộng đoàn, ở đó các anh em hiệp thông với Chúa Thánh Thể và với nhau: “Vì vậy, nhân danh Chúa, tôi hết lòng khuyến khích anh em: tại các nơi anh em ở, mỗi ngày, anh em hãy cử hành một thánh lễ mà thôi theo thể thức của Hội Thánh” [17]. Vì vậy, nhà khuyến khích các anh em linh mục tham dự thánh lễ của các anh em linh mục khác: “Nếu ở đó (trong cộng đòan) có nhiều linh mục, thì vì lòng yêu mến đối với Thiên Chúa là Tình yêu, người này hãy vui lòng dự lễ của người kia” [18]. Và như thế, việc cử hành thánh lễ chung trong cộng đoàn và nhiều linh mục tham dự một thánh lễ là nhắm đến sự hiệp thông huynh đệ trong Thánh Thể. Một tác giả đã nhận định rất hay về quan điểm này rằng: “Điều thánh Phanxicô Assisi nhắm khi muốn chỉ có một thánh lễ hằng ngày trong mỗi cộng đoàn, đó là gìn giữ mối dây bác ái huynh đệ, và mối dây ấy không tỏ lộ lúc nào cách hiển nhiên hơn là khi cùng dâng hiến hy tế Thánh Thể” [19]. Sự hiệp thông trong thánh lễ đồng tế là một nét mới được Giáo Hội khuyến khích và cổ võ từ giáo huấn của Công đồng Vaticanô II: “Việc đồng tế biểu lộ chính đáng tính hợp nhất của chức linh mục” [20]. Đấy là điều mà thánh Phanxicô đã sống và dạy anh em thực hành từ nhiều trăm năm trước nay lại được Giáo hội chính thức nhìn nhận.
Một cử chỉ khác của thánh Phanxicô vào những ngày cuối đời cũng thể hiện tình hiệp thông huynh đệ, giống như Chúa Giêsu đã cử hành trước cuộc tử nạn của Ngài. Nói đúng hơn Phanxicô đã bắt chước Chúa Giêsu. “Ngài xin anh em môt cái bánh mì, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho mỗi người một miếng nhỏ. Ngài cũng xin đọc đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan: “Trước lễ vượt qua, Chúa Giêsu.. .và người đã yêu họ đến cùng...(x.Ga 13, 1-15)” [21].
Ở đây, thánh Phanxicô bắt chước Chúa Giêsu với ý nghĩa là hiệp thông anh em trong lúc anh em của ngài đang hoang mang vì gần phải xa cách người cha yêu dấu. Chính sử gia Tôma Cêlanô đã nhận thấy điều này: “Ngài làm như thế để tưởng niệm bữa Tiệc ly mà Chúa đã cử hành với các môn đệ Ngài làm những cử chỉ ấy để tưởng nhớ đến Chúa và để cho các anh em của ngài thấy lòng ngài yêu thương họ đến chừng nào”. Thực vậy, thánh Phanxicô xem Bí tích Thánh Thể là chứng cứ tối cao của tình thương mà Chúa Kitô dành cho các môn đệ. Vì thế, khi thấy anh em khóc than đau đớn, ngài không biết làm gì hơn là lặp lại cùng một cử chỉ yêu thương của Chúa Kitô: “cử chỉ bẻ bánh” . Điều này cũng được thể hiện trong sách Gương trọn làng: “Như Chúa đã muốn dùng một bữa ăn cuối với các môn đệ vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh trước khi chịu chết, để làm dấu chứng tỏ tình yêu thương của Người, thánh Phanxicô, con người noi gương Chúa cách hoàn hảo, cũng muốn nêu lên cùng một dấu chứng tỏ tình thương như vậy” [22]. Đây là một việc làm có một không hai trong lịch sử mà vị thánh nghèo muốn bắt chước Chúa Giêsu để tỏ bày tình yêu thương chân thành của ngài với anh em đang quay quần bên giường bệnh của mình.
Chiều kích hiệp thông huynh đệ của Bí tích Thánh Thể ngày nay cũng được Giáo Hội nhấn mạnh: “Nơi các đoàn thể đó, tín hữu được tụ họp lại nhờ sự rao giảng Phúc âm Chúa Kitô và mầu nhiệm Tiệc thánh Chúa được cử hành, để nhờ Thịt và Máu Chúa, tất cả kết thành huynh đệ và thành một thân thể. Chúa Kitô vẫn hiện diện trong các cộng đoàn ấy, dù nhỏ bé nghèo hèn hay tản mác khắp nơi. Và nhờ Thần lực Người, Giáo Hội hiệp thành duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền” [23].
Thật vậy, đây là một chiều kích mà các nhà thần học hiện nay quan tâm, vì chúng có tầm quan trọng trong đời sống của các Kitô hữu. Một tác giả đã diễn tả rất hay quan điểm này rằng:
“Bí tích thánh thể biểu hiện hiệp thông nên chúng ta có thể nói về sự hiện diện của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể như là sự đồng hiện diện với Giáo Hội, hiện diên cho Giáo Hội và vì Giáo hội. Đồng thời Chúa Kitô là tấm bánh được bẻ ra trao cho mọi người, nên Bí tích Thánh Thể không chỉ biểu đạt sự quan hệ giữa Thiên Chúa và con người, nhưng còn là biểu đạt tính duy nhất của mỗi người trong tương quan với cộng đồng” [24].
Từ chiều kích hiệp thông huynh đệ, thánh Phanxicô đưa chúng ta đến một sự liên kết mới là Thánh Thể và Lời Chúa.
* Bí tích Thánh Thể và Lời Chúa
Đây là một trong những nét đặc biệt của thánh Phanxicô khi ngài hiểu về Bí tích Thánh Thể. Chúng ta thấy sau Công đồng Vaticanô II, Giáo Hội mới đề cao Lời Chúa và trả lại cho Lời Chúa tầm quan trọng ngang tầm với Thánh Thể trong cử hành thánh lễ. Thế nhưng, thánh Phanxicô từ thế kỷ 12 đã tôn kính Lời Chúa như một bí tích ngang tầm với Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa. Thực vậy, mỗi lần thánh Phanxicô nói đến Bí tích Thánh Thể, đồng thời ngài cũng nói đến “các Lời Chí Thánh của Chúa”.
Theo thánh Phanxicô thì Lời Chúa được hiểu theo nghĩa rộng, Lời Chúa trong Kinh Thánh, trong phụng vụ trong lời giảng dạy. Ngài nhắc đến lời trong công thức truyền phép Thánh Thể của linh mục: “Chúng ta biết rằng không thể có thân mình Chúa, nếu trước tiên không có lời truyền phép.” [25]; trong các bản văn phụng vụ; trong lời giảng dạy của các nhà thần học và các nhà giảng thuyết [26].
Từ đó, chúng ta thấy, thánh Phanxicô nhìn thấy trong Kinh Thánh một sự hiện diện sống động, sự hiện diện của Đức Kitô và ngài đã từng đến với Kinh Thánh như đến với Đức Kitô: “Để kiểm chứng lời tôi nói, sáng mai chúng ta đến nhà thờ, mở sách Phúc Âm và chúng ta sẽ xin lời khuyên của chính Chúa Kitô” [27].
Hơn nữa, mỗi lần đề cập đến Mình và Máu Thánh Chúa, thánh Phanxicô đều nói đến Lời Thánh Thiện của Chúa: “Thật vậy, chúng ta không có cũng không thấy được điều gì cụ thể về chính Đấng Tối cao ở đời này, ngoài Mình và Máu Chúa, những Danh hiệu và những Lời của Ngài: nhờ những bảo vật ấy, chúng ta đã được dựng nên, được cứu thoát khỏi chết và dẫn đưa vào cõi sống (x. 1Ga 3,14).” [28]. Theo các nhà thần học thời Trung cổ thì sự hiện diện “cách thể lý” là nói về sự hiện diện của Thiên Chúa trong Bí tích Thánh Thể sau khi đã truyền phép, nhưng đối thánh Phanxicô thì sự hiện diện này đồng thời cả trong “những Danh hiệu và Lời của Người”. Như thế, đối với thánh Phanxicô những Lời thần linh cũng là dấu hiệu thể lý của Con Thiên Chúa, tương đương với Bí tích Thánh Thể. Mối liên hệ mật thiết trong tâm tưởng của thánh Phanxicô giữa Bí tích Thánh Thể và Lời Chúa cũng có một giá trị bí tích trong đó ngài gặp được sự hiện diện của Con Thiên Chúa.
Đây là một nét mới của thần học sau Công đồng Vaticanô II; Giáo Hội nhìn nhận giá trị ngang nhau của Thánh Thể và Lời Chúa trong thánh lễ như những nguồn lương thực thần linh cho con người: “Thánh lễ gồm hai phần, phần phụng vụ Lời Chúa và phần phụng vụ Thánh Thể được liên kết chặt chẽ đến nỗi chỉ tạo thành một hành vi phụng thờ duy nhất” [29].
* Tóm lại, thánh Phanxicô đã có một đức tin mãnh liệt vào chiều kích tưởng niệm cuộc vượt qua của Đức Giêsu trong Bí tích Thánh Thể từ rất sớm. Đó cũng là điều mà Công đồng Vaticanô II quan tâm và nhấn mạnh:
“Trong bữa tiệc sau hết, vào đêm bị nộp, Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã thiết lập Hy Tế Tạ Ơn bằng Mình và Máu Người, để nhờ đó, Hy Tế Thập Giá kéo dài qua các thời đại cho tới khi Người lại đến, và cũng để ủy thác cho Hiền Thê yêu quý của Người là Hội Thánh tưởng nhớ sự chết và phục sinh của Người: đây là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc Vượt Qua. Trong tiệc này, chúng ta nhận được Chúa Kitô làm của ăn, được tràn đầy ân sủng và được bảo đảm vinh quang tương lai" [30].
Ở điểm này, chúng ta thấy có một sự gặp gỡ nào đó giữa tư tưởng của thánh Phanxicô và quan niện thần học của Công đồng về chiều kích hy tế của Thánh Thể. Như thế, giáo huấn của Công đồng Vaticanô II đã làm mới lại và phong phú hoá quan điểm của Phanxicô về mầu nhiệm vượt qua của Thánh Thể hay mang có chiều kích hy tế của Thánh Thể một sự mới mẻ về ý nghĩa vốn có của nó.
Từ những cách hiểu sâu sắc về Bí tích Thánh Thể nói trên, thánh Phanxicô không dừng lại ở đó, nhưng tiến xa hơn nữa, bằng cách sống những điều mình đã hiểu và cảm nghiệm về Bí tích Cực Thánh này.
4. Thánh Phanxicô sống Bí tích Thánh Thể
Chúng ta có thể xem xét mối tương quan thân mật của thánh Phanxicô và mầu nhiệm Thánh Thể trong cuộc đời thánh Phanxicô theo ba cách thức chính yếu, mà ngài đã sống sau khi hoán cải và được ngài nhắc lại trong Di Chúc.
4.1. Rước lễ thường xuyên
Trong một bối cảnh mà mọi người đang xa rời Bí tích Thánh Thể và xem đó như một biểu tượng để thờ lạy, thì thánh Phanxicô lại có một sự kết hợp mật thiết và gần gủi với Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa. Điều này thể hiện qua việc ngài thường xuyên tiếp rước Mình Thánh Chúa: “Theo ngài (thánh Phanxicô) sẽ là một sự xúc phạm lớn đến với Bí tích này nếu không tham dự tất cả mọi ngày ít nhất một thánh lễ. Chính ngài rước lễ thường xuyên và lòng sùng mộ của ngài lôi cuốn được nhiều người” [31]. Tuy nhiên, chúng ta nhận thấy thái độ này của thánh Phanxicô có liên quan đến quy định của Công đồng Latêranô IV (mà ngài đã tham dự) là xưng tội một năm ít là một lần và rước lễ trong Mùa Phục Sinh, để chỉnh đốn lại tình trạng các tín hữu bỏ không rước lễ [32].
Đây là một việc làm trông có vẻ rất bình thường với chúng ta hôm nay, nhưng trong thời đại thánh Phanxicô, Giáo Hội khuyên rước lễ trong Mùa Phục sinh, nghĩa là việc rước lễ không có tính thường xuyên và việc làm của thánh Phanxicô đã thực sự đi ngược lại cảm thức của các Kitô hữu thời ngài để sống tinh thần của Công đồng. Cách thức thực hành này mãi tới mấy thế kỷ sau Giáo Hội mới mời gọi con cái mình thực hành trong đời sống đức tin. Giáo huấn của Công đồng Vatican II dạy: “Rất đáng khuyến khích các tín hữu tham giữ thánh lễ hoàn hảo hơn, bằng cách sau khi linh mục rước lễ, họ cũng lãnh nhận Mình Máu Chúa trong cùng một Hy lễ đó” [33]. Gần đây, Huấn thị Bí Tích cứu chuộc cũng nhấn mạnh thêm việc rước lễ khi tham dự thánh lễ: “Chắc chắn thật là tốt nếu những ai tham dự thánh lễ nên rước lễ trong buổi cử hành đó, miễm là họ hội đủ mọi điều kiện cho phép họ rước lễ” [34].
Chính hành vi thường xuyên tiếp rước Mình Thánh Chúa mà thánh Phanxicô đã có một mối dây tình yêu thân thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể. Từ đây, xuất phát lòng tin mạnh mẽ của ngài vào các Nhà Thờ, nơi có Chúa Giêsu hiện diện trong nhà tạm.
4.2. Lòng tin vào các Nhà Thờ
Thánh Phanxicô có một lòng tin mãnh liệt vào các nhà thờ, vì ngài tin rằng ở đó có sự hiện diện của Chúa Giêsu Thánh Thể Điều này được ngài đề cập đến trong Di chúc: “Chúa đã ban cho tôi lòng tin mạnh mẽ đối với các nhà thờ, vì thế tôi cầu nguyện một cách đơn sơ rằng: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con thờ lạy Chúa trong hết mọi nhà thờ trên hoàn cầu. Chúng con chúc tụng Chúa vì Chúa đã dùng cây Thánh giá mà cứu chuộc thiên hạ” [35]. Sau khi thánh Phanxicô nhắc đến nhà thờ và thánh giá thì ngài nói đến linh mục và phép Mình Thánh Chúa, vì thế chúng ta tin chắc rằng ở đây thánh Phanxicô nói đến Chúa Giêsu Thánh Thể [36].
Từ chỗ tin vào sự hiện diện của Chúa trong các nhà thờ, thánh Phanxicô khuyên các tín hữu năng viếng các nhà thờ và tôn trọng các linh mục vì các ngài là thừa tác của Bí tích Thánh Thể: “Chúng ta phải năng đi viếng các nhà thờ, tôn kính và quí trọng các giáo sĩ, không phải vì bản thân các ngài bao nhiêu vì các ngài có thể là những người tội lỗi, nhưng chính là vì thánh chức và nhiệm vụ của các ngài đối với Mình và Máu rất thánh của Đức Kitô mà các ngài dâng hiến trên bàn thờ, nhận lấy và ban phát cho kẻ khác. Tất cả chúng ta phải biết chắc rằng: không ai có thể được cứu độ nếu không phải là nhờ các lời thánh thiện và Máu của Chúa Giêsu Kitô mà các giáo sĩ đọc, rao giảng và ban phát.” [37].
Đây là một lời khuyên thể hiện lòng tin tưởng của thánh nhân vào Chúa Giêsu Thánh Thể trong các nhà thờ. Mãi về sau nó mới trở thành một việc làm đạo đức được phổ biến rộng rãi trong Giáo Hội. Chúng ta biết, ngay từ lúc sinh thời, thánh Phanxicô đã xin Đức Giáo hoàng cho phép những ai đến viếng nhà thờ Đức Bà các Thiên thần (của Dòng) thì được ơn đại xá. Ngày nay hành vi đạo đức này đã được Giáo Hội nhìn nhận và phổ biến khắp nơi. Việc viếng Thánh Thể hay viếng nhà thờ đã trở thành một hành vi đạo đức bình dân mang tính thường xuyên của các Kitô hữu trên khắp thế giới.
4.3. Lòng tin vào các linh mục
Tiếp theo lòng tin vào các nhà thờ, thánh Phanxicô đề cập đến lòng tin vào các linh mục như những người có quyền truyền phép và trao ban Mình Máu Thánh Chúa cho người khác. Đây là một biểu hiện lòng tin của ngài vào Bí tích Thánh Thể.
Trong Di chúc ngài nói lên thái độ tùng phục các linh mục một cách mau mắn: “Dù tôi có khôn ngoan như Salômon, nếu tôi gặp các linh mục thấp kém ở thế gian này, tôi cũng không muốn giảng dạy trong giáo xứ của các ngài, nếu các ngài không chấp thuận” [38]. Sở dĩ thánh Phanxicô kính mến các linh mục là vì những lý do khác nhau:
Thứ nhất, ngài nhận thấy Chúa Kitô hiện diện trong các linh mục, dù cho cuộc sống của các vị ấy không xứng đáng: “Tôi muốn kính sợ, yêu mến và quý trọng các ngài cũng như tất cả các linh mục khác như là tôn chủ của tôi. Tôi không muốn xem xét tội lỗi của các ngài; vì tôi nhìn thấy Con Thiên Chúa hiện diện nơi các ngài” [39].
Kế đến, thánh Phanxicô nhìn con người của linh mục qua chức vụ cử hành Bí tích Thánh Thể và ban phát Lời Chúa: “Hỡi anh em linh mục, xin hãy nghĩ đến chức vụ cao trọng của anh em và hãy sống thánh thiện vì Thiên Chúa là Đấng thánh thiện. Thiên Chúa đã trọng đãi anh em hơn mọi người vì chức vụ ấy” [40].
Từ đó, chúng ta nhận thấy, thánh Phanxicô có một lòng tin mạnh mẽ vào các linh mục. Lòng tin này bắt nguồn từ lòng tin của ngài vào Bí tích Thánh Thể. Đây là một quan điểm đi ngược lại với lịch sử nước Ý lúc bấy giờ: có nhiều người đã nổi dậy chống các linh mục bất xứng [41].
Thần học của Vaticanô II cũng đã nhấn mạnh vai trò của linh mục trong Thánh Thể qua Sắc lệnh đời sống linh mục: “Nhờ thừa tác vụ của các linh mục, hy tế thiêng liêng của các tín hữu được hoàn tất vì kết hiệp với Hy tế của Chúa Kitô, Đấng Trung gian duy nhất; hy tế này nhờ tay các linh mục, nhân danh Giáo Hội, hiến dâng một cách bí tích và không đổ máu trong bí tích Thánh Thể, cho tới khi Chúa lại đến. Chính việc tế lễ này là điểm nhắm tới và hoàn tất của tác vụ linh mục” [42].
* Tóm lại, niềm say mê Chúa Kitô trong phép Thánh Thể đã kết tinh trong các thực hành rất cụ thể và sống động nơi thánh Phanxicô từ nhiều thế kỷ trước. Tinh thần này của của ngài ngày hôm nay Giáo Hội lại hết mực quan tâm và mời gọi con cái mình ý thức và thực hành:
“Giáo Hội hằng bận tâm lo cho các Kitô hữu đừng tham dự vào mầu nhiệm đức tin ấy như những khách bàng quan, câm lặng, nhưng nhờ hiểu thấu đáo mầu nghiệm mầu nhiệm đó qua nghi lễ và kinh nguyện sao cho họ tham dự hoạt động thánh cách ý thức, thành kính và linh động, cho họ được đào luyện bởi Lời Chúa, được bổ sức nơi bàn tiệc Mình Chúa” [43].
III. MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH
Cái nhìn của thánh Phanxicô về Bí tích Thánh Thể trải rộng trong các Di cảo của Ngài. Việc ta “lục lọi” trong các tác phẩm đó để tìm kiếm những “viên ngọc ẩn dấu” là một việc làm khó khăn không chỉ riêng ai, vì sự tinh tế và nhạy bén của ngài về Thánh Thể luôn mang tính vượt thời gian. Và như thế càng tìm kiếm chúng ta càng thấy tư tưởng của ngài “ẩn hiện’ trong các quan điểm thần học của Công đồng Vatican II và các nhà thần học hậu Công đồng.
1. Những “tia sáng” trong bầu trời âm u
Đặt quan điểm và cách thực hành niềm tin của thánh Phanxicô vào trong bối cảnh Giáo Hội Rôma thời Trung cổ, người viết nhận thấy đức tin của thánh Phanxicô đối với Bí tích Thánh Thể là một cuộc “cách mạng” thần học về bí tích này. Sống trong một thời đại mà mọi người đang có những quan điểm lạc xa với Thánh Thể, lòng tin và sống Bí tích Thánh Thể một cách trung thành và sáng tạo của thánh Phanxicô là một cái nhìn táo bạo, mang tính “vượt thời gian” về mầu nhiệm Thánh Thể của Chúa Kitô.
Chúng ta biết, các tín hữu và các giáo sĩ thời bấy giờ có khuynh hướng tách rời Bí tích Thánh Thể ra khỏi lịch sử chung của ơn cứu độ, hoặc vì chỉ thấy vị Chúa vinh quang để thờ lạy và chiêm ngắm, hoặc vì chỉ nhìn thấy bí tích này như một thứ lương thực thiêng liêng giúp cho cá nhân tiến bộ trên đàng nhân đức, nhưng lại không thấy hay ít thấy chiều kích hy lễ và chiều kích hiệp thông của Bí tích Thánh Thể [44]. Và như thế, cách hiểu và sống Bí thích Thánh Thể của thánh Phanxicô như những “tia sáng” hiếm hoi trong bầu trời Trung cổ âm u. Nhưng những tia sáng đó lại có sức lan toả mãnh liệt vào trong thâm sâu của lòng người, và nó như đang cưu mang một niềm hy vọng vào một buổi bình minh rực rỡ của thần học về Bí Tích Thánh Thể.
2. Một “bình minh” ló rạng
Có thể nói, với Hiến Chế Phụng Vụ Thánh, một văn kiện đầu tiên của Vaticanô II, Giáo Hội đã kết liễu một kỷ nguyên, khi kêu gọi thay đổi phụng vụ cách triệt để hơn bất cứ một cuộc thay đổi nào trong bốn thế kỷ trước đó. Từ đó, quan điểm thần học về Phụng vụ nói chung và Thánh Thể nói riêng được quan tâm, suy tư và cải tổ, để trở thành “thực tại thần linh” sống động và uyển chuyển trong đời sống đức tin của các tín hữu. Sự đa dạng hoá đã trở thành luồng gió mát xua tan những ngột ngạt của sự đồng nhất trong phụng vụ vốn là một nguyên tắc cứng nhắc trong Giáo Hội trước đó.
Trong Thánh Thể, sự canh tân đã xuất hiện: “Thánh lễ bằng tiếng La tinh đã được dịch sang các ngôn ngữ hiện đại, phụng vụ bắt đầu đơn giản và hiện diện hơn, có tính Kinh Thánh và tạ ơn hơn, nhấn mạnh đến các bài đọc Kinh Thánh và việc hiệp lễ hơn là việc truyền phép. linh mục được khuyến khích đồng tế, và giáo dân được mời gọi tham gia” [45]. Công đồng đã nhấn mạnh các chiều kích khác nhau của Thánh Thể. Trong số đó, chiều kích hy tế và chiều kích hiệp thông (tham gia) của Bí tích Thánh Thể, điều mà thánh Phanxicô đã tin và đã sống từ hơn 800 năm trước, lại là những điểm nhấn của Công đồng Vaticanô II trong các văn kiện khác nhau như đã nói ở trên.
Dẫu biết rằng những chiều kích căn bản này của Bí tích Thánh Thể đã được các Kitô hữu tiên khởi tuyên nhận và sống; các Giáo phụ đã ít hay nhiều bàn đến, nhưng thánh Phanxicô không phải là một nhà thần học đúng nghĩa, ngài không khảo cứu nhiều về thần học và chắc rằng ngài không trực tiếp làm việc trên các tài liệu này. Hơn nữa, trong một bối cảnh mà người ta có nhiều lối giải thích sai lệch về Bí tích Thánh Thể, mà ngài vẫn giữ được những “hạt ngọc” tư tưởng rất gần với quan điểm của thần học hiện đại về Bí tích Thánh Thể. Sự gặp gỡ mang tính “kỳ ngộ” giữa niềm tin yêu và sống của thánh Phanxicô vào Thánh Thể và quan niện của thần học hiện đại không phải là một sự tình cờ, nhưng do cả hai cùng có chung một nguồn liệu vô cùng quan trọng là Kinh Thánh. Đây cũng là điều dễ hiểu khi thánh Phanxicô là một tâm hồn được thấm nhuần Kinh Thánh, đến nỗi những lời nói của ngài luôn mang dáng dấp lời Kinh Thánh; còn xu hướng thần học Bí tích nhất là Thánh Thể sau Công đồ Vaticanô II lại nỗ lực trở về nguồn Kinh Thánh và Giáo Phụ để tìm lại kinh nghiệm thuở ban đầu.
Có thể nói, “bình minh” của Bí tích Thánh thể đã chiếu soi vào đời sống các Kitô hữu hôm nay từ cột mốc quan trọng của Công đồng Vatican II; và nó đã có một sức lan toả diệu kỳ làm tươi mát đời sống tâm linh của bao người. Và như thế, một cách nào đó tư tưởng của vị thánh nghèo đã gợi hứng cho những nỗ lực của Giáo Hội trong khi tìm về cội nguồn của Bí tích Thánh Thể trong Kinh Thánh và Giáo phụ.
IV. KẾT LUẬN
Từ việc tìm hiểu tư tường của thánh Phanxicô về Bí tích Thánh Thể, người viết nhận thấy rằng: Sự bén nhạy của thánh Phanxicô về Bí tích Thánh Thể là kết quả của một tâm hồn say mê Đức Kitô cho đến lúc được đồng hình đồng dạng với Ngài khi nhận năm dấu thánh vào năm 1224.
Hơn nữa, ngài cũng đã được thấm nhuần sâu xa giáo huấn truyền thống của Giáo Hội mà ngài đã tiếp nhận qua Phụng vụ, qua Phúc Âm, nhất là Tin Mừng Gioan. Thánh Phanxicô luôn đặt Bí tích Thánh Thể trong toàn bộ lịch sử cứu độ và coi bí tích ấy như là sự tiếp nối của biến cố Nhập Thể và vẫn hiện tại hóa trong đời sống của chúng ta nhờ Bí tích Thánh Thể:
“Ý Chúa Cha là Chúa con hiển phúc và vinh quang mà người ban cho chúng ta và đã sinh ra cho chúng ta (đây là mầu nhiệm nhập thể), lấy máu mình mà hy tế và lễ vật đâng trên bàn thờ thập giá (mầu nhiệm cứu chuộc bằng cây thập giá), Không phải vì bản thân Người, chính nhờ Người mà vạn vật được tạo thành (đây là công cuộc tạo dựng), nhưng vì tội lỗi chúng ta. Người đã để lại một gương mẫu cho chúng ta dõi bước theo Người. Chúa Cha cũng muốn tất cả chúng ta được Chúa con cứu độ và tiếp nhận Con của Người với tâm hồn tinh tuyền và thể xác thanh sạch (đây là ơn cứu độ nhờ Bí tích Thánh Thể”.
Mầu nhiệm Thánh Thể dường như đã thấm nhập và sinh hoa kết trái trong con người thánh Phanxicô năm nào, giờ đây “bàng bạc” trong các văn kiện của Công Đồng Vaticanô II. Và đến lượt mình, nó lại thấm nhập, bén rễ và sinh hoa kết quả trong đời sống của mọi thành phần Dân Chúa trong thế giới hôm nay.
Thiết nghĩ, việc tìm hiểu quan điểm cùa thánh Phanxicô về Bí tích Thành Thể là dịp thuận tiện giúp chúng ta hiểu biết hơn về một con người đã có những cái nhìn “vượt thời gian” về mầu nhiệm Thánh Thể; và như thế ngài trở thành một mẫu gương tuyệt vời về cách hiểu, cách cảm và cách sống bí tích Tình Yêu cho chúng ta hôm nay.
Hơn nữa, việc làm này cũng giúp chúng ta đào sâu quan niện thần học của Giáo Hội ngày nay về Thánh Thể. Ngõ hầu Thánh Thể trở thành một nguồn mạch sức sống mới tuôn chảy trên cuộc đời chúng ta và mở ra cho chúng ta một chân trời mới trong hành trình sống và loan báo tình yêu và niềm hy vọng của Bí tích Thánh Thể cho thế giới hôm nay, như lời mời gọi của Đức Bênêđictô: “Chúng ta hãy khích lệ lẫn nhau hân hoan sánh bước, lòng đầy ngạc nhiên, đến gặp Thánh Thể để có thể cảm nhận cũng như loan báo cho người khác sự thật về những Lời Chúa Giêsu đã nói khi Người từ biệt các môn đệ: ‘Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế’”.
Chú thích:
[1] Nguyễn Văn Khanh, Chúa Giêsu Kitô trong tư tưởng thánh Phanxicô Asissi, luận án tiến sĩ, 1973, Nguyễn Gia Thịnh dịch, Tủ sách Phansinh, 2003, tr 286.
[2] Sđd, tr 287.
[3] Sđd, tr 290-291
[4] Nguyễn Đức Thông, Kết duyên, Các bí tích gia nhập đạo, 2007, tr 234.
[5] Kajatan Esser, Chú Giải Luật Dòng Phan sinh, Bản dịch của Trần Hữu Phương, Tủ sách Phan sinh, 2002.
[6] Nguyễn Văn Khanh, Sđd, tr 309.
[7] Tôma Cêlanô, Truyện ký thánh Phanxicô, cuốn I, (1Cl) Bản dịch của Nguyễn Gia Thịnh, Tủ sách Phansinh 2004, số 84 -86.
[8] Thánh Phanxicô, Huấn ngôn I (Hn 1), 16-18.
[9] Nguyễn Văn Khanh, Sđd, tr 311.
[10] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, số 55.
[11] Hn 1, 20-22.
[12] X. Hy lễ: Thư gởi các tín hữu, bản gốc 2 (2TTh), 11; Thư toàn dòng (TTd), 14; Thư thứ nhất gởi các anh Tổng Phục vụ (1TTpv), 3; Hiến tế: Thư gởi các tín hữu, bản gốc 2 (2TTh), 4; 1TTpv 2, Thư gởi các Giáo sĩ, bản gốc 2 (2TGs), 4.
[13] Tông huấn hậu thượng Hội đồng Giám mục, Sacramentum Caritatis, số 9.
[14] TTd 14,16.
[15] x. 2 Celanô 201
[16] Nguyễn Văn Khanh, Sđd, tr 324.
[17] TTd 30.
[18] TTd, 31.
[19] X. Nguyễn Văn Khanh, Sđd, tr 326.
[20] PV 57.
[21] 2 Cel 217; GT 88.
[22] Sách Gương trọn lành, l 88.
[23] GH 26
[24] Vũ Chí Hỹ, Thánh thể Bí tích của niềm hy vọng cánh chung, bài giảng. 2008.
[25] 1TGs 1-2.
[26] x.Dc 12 - 13
[27] 2 Celanô 15.
[28] 1TGs 3.
[29] PV 56.
[30] PV 47.
[31] 2Cel 201.
[32] Nguyễn Văn Khanh, Sđd, tr 329.
[33] PV 55.
[34] Thánh bộ Phượng Tự và Bí Tích, Huấn thị Bí tích Cứ chuộc, năm 2004, số 83.
[35] Thánh Phanxicô, Di chúc (Dc), 4.
[36] X. Nguyễn Văn Khanh, Sđd, tr 334.
[37] 2TTh 33-35.
[38] Dc 7.
[39] Dc 9-9.
[40] TTd 23.
[41] X.Nguyễn Văn Khanh, Sđd, tr 341.
[42] LM 2.
[43] PV 48.
[44] Nguyễn Văn Khanh, Sđd, tr 342.
[45] Nguyễn Đức Thông, Kết duyên, Sđd, tr 268.
[46] 2TTh 11-14, (Chú giải thêm của Nguyễn Văn Khanh.)
[47] Sacramentum Caritatis, Sđd, số 97.
VỀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ
I. DẪN NHẬP
Bí tích thánh thể là nguồn mạch ơn cứu độ, được Chúa Giêsu thiết lập và Giáo Hội cử hành trong hơn hai ngàn năm qua. Nhưng những gì Giáo Hội tin và hiểu về Bí tích Thánh Thể lại có nhiều thăng trầm trong suốt dòng chảy của lịch sử ấy.
Nếu như các Kitô hữu tiên khởi có một niềm tin mãnh liệt vào Thánh Thể và sống kinh nghiệm sâu sắc về bí tích này, thì bước sang thời Trung cổ do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng về Bí tích Thánh Thể, nên càng ngày Giáo Hội càng đánh mất kinh nghiệm sống động của Nhiệm Tích này. Hậu quả của nó là các Kitô hữu thời Trung cổ ngày càng xa cách với Bí tích Thánh Thể; Thánh Thể chỉ là bí tích để họ chiêm ngắm và thờ lạy, chứ không phải là thứ lương thực hằng ngày mang lại ơn cứu độ cho con người. Trong bối cảnh đó, chúng ta thấy thánh Phanxincô lại có những cách hiểu, cách sống Bí Tích Thánh Thể rất hợp với Tin Mừng và quan điểm của Giáo Hội hiện nay về Bí tích Thánh Thể. Phải chăng đây là cái nhìn “vượt thời gian” của ngài về Bí tích trung tâm của đời sống Giáo Hội?
Từ vấn nạn đó, người viết trở về với các Di Cảo của thánh Phanxicô để tìm hiểu niềm tin yêu và cách sống Bí tích Thánh Thể của ngài, và đối chiếu với nhãn quan thần học về Bí tích Thánh Thể hiện nay, nhằm giúp cho bản thân có được sự xác tín sâu xa hơn về niềm tin của mình vào Thánh Thể, và sống mãnh liệt hơn Bí tích Tình Yêu mà mình chiêm ngắm và cử hành mỗi ngày.
Nhân dịp mừng lễ thánh Phanxicô năm nay, cũng là dịp Anh Chị Em Phan Sinh Việt Nam cử hành bế mạc Năm Thánh Phan Sinh “80 năm hiện diện trên Đất Việt”, xin được chia sẻ cùng ban đọc gần xa.
II. CÁI NHÌN “VƯỢT THỜI GIAN” CỦA THÁNH PHANXICÔ VỀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Thánh Phanxicô không phải là nhà thần học theo nghĩa chặt, nhưng khi chiêm ngắm cuộc đời và cách thức ngài sống đức tin, chúng ta nhận thấy ngài có nhiều cái nhìn trực giác mang tính “vượt thời gian” về thần học. Trong số đó, cách hiểu và thực hành Bí tích Thánh Thể của ngài là một cái nhìn đặc sắc và rất có ý nghĩa với chúng ta hôm nay.
1. Bối cảnh của Bí tích Thánh Thể trong thời đại thánh Phanxicô
Thánh Phanxicô sinh vào thế kỷ 12 và sống trong thượng bán thế kỷ 13. Trong thời kỳ đầu của lịch sử Trung cổ Phương Tây, xã hội Ý đang có nhiều biến chuyển về mọi mặt. Giáo Hội Rôma đã chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng sâu rộng liên quan đến Bí tích Thánh Thể, được manh nha từ thế kỷ VI. Chúng ta thấy, Công đồng Latêranô IV, công đồng mà thánh Phanxicô tham dự, đã rất quan tâm đến cuộc khủng hoảng này.
Cuộc khủng hoảng này chủ yếu diễn ra do các tín hữu không còn chuyên cần tiếp rước Thánh Thể, nhưng lại đề cao việc tôn thờ và chiêm ngắm: “Người ta bắt đầu đặt ra nghi thức nâng cao Mình Thánh Chúa ngay sau khi truyền phép để dân chúng thờ lạy…nên việc rước lễ hằng ngày, đã được đức Giáo Hoàng Grêgôriô VII cổ võ ở thế kỷ trước không còn phổ biến” [1]. Tình trạng thờ ơ với Thánh Thể còn thể hiện nơi hàng giáo sĩ Công giáo lúc bấy giờ: “Công đồng Latêranô cũng đã cảnh cáo các giáo sĩ nhất là các giáo sĩ cao cấp, “cử hành thánh lễ mỗi năm không quá bốn lần, và tệ hơn nữa là không tham dự thánh lễ” [2]. Có lẽ vì cơn khủng hoảng này mà Công đồng đã đưa ra luật: Xưng tội ít nhất mỗi năm một lần và rước lễ trong mùa Phục Sinh.
Nguyên nhân chính dẫn đến cuộc khủng hoảng này là do nhiều người Kitô hữu buông thả trong đời sống luân lý và tôn giáo và quên lãng nhân tính của Đức Kitô. Từ đó người ta có xu hướng xa rời Bí tích Thánh Thể: “Các Kitô hữu chỉ xem Thánh Thể như một ‘mầu nhiệm đáng kính sợ, vì chỉ nhìn thấy Đức Kitô như là Thiên Chúa toàn năng, vị Chúa tể, vị Thẩm phán tối cao của vũ trụ, nên họ đã quên rằng Đức Kitô cũng là một con người, là người Anh, người Bầu Chữa cho họ trước toà Chúa” [3].
Trong bối cảnh của sự sợ hãi và tôn kính cực độ, việc rước lễ đối với tín hữu không còn là một sự tham dự vào hy tế của Đức Kitô, nhưng trở thành một phần thưởng ban cho những tâm hồn trong sạch. Từ đây nảy sinh một hướng linh đạo mới cũng góp phần làm giảm việc rước lễ: rước lễ được xem là nguyên lý để đạt đến sự trọn lành cá nhân. Và như thế việc rước lễ càng lúc càng được xem như độc lập với hy tế thánh giá.
Càng ngày, người ta càng xa lìa Bí tích Thánh Thể và hậu quả là những lạm dụng và những dị đoan về Thánh Thể: “Có người tin rằng chỉ cần nhìn lên Mình Thánh khi linh mục giơ lên cũng có sức xua trừ bệnh tật hoặc chết chóc, hoặc đem lại vận may” [4].
Đứng trước bối cảnh đó, thánh Phanxicô không bị cuốn hút vào xu hướng của người đương thời, trái lại ngài có được một cách hiểu và thực hành mang tính trung thành và sáng tạo về Bí tích Thánh Thể. Chúng ta nhận thấy điều đó nơi các Di cảo của ngài.
2. Bí tích Thánh Thể trong Di Cảo của thánh Phanxicô
Trong các Di cảo của thánh Phanxicô, chúng ta thấy nhiều lần ngài đề cập đến Bí tích Thánh Thể. Ngài dùng cụm từ“Mình và Máu Thánh Chúa” 18 lần, để chỉ về Bí tích Thánh Thể. Trong số các Di cảo, thì Huấn ngôn I, diễn tả cái nhìn cốt lõi của Phanxicô về Bí tích Thánh Thể. Giống như các Huấn ngôn khác, người ta không thể xác định được tính xác thực và niên đại của Huấn ngôn I; nhưng đây là một viên ngọc quý, là đầu mối giúp chúng ta khám phá ra cái nhìn của Phanxicô về Bí tích Thánh Thể. Theo các học giả Phan sinh thì, các bản văn của thánh Phanxicô không phải là những thiên khảo luận thần học tín lý, nhưng đó là những bản văn được viết theo yêu cầu của hoàn cảnh. Riêng các huấn ngôn thì tác giả Kajatan Esser cho rằng: “Các huấn ngôn là những lời chỉ giáo và khích lệ của Phanxicô. Tất cả được ra đời từ các hoàn cảnh khác nhau trong cuộc sống đời thường của anh em. Đó là những viên ngọc quý báu chỉ dẫn con đường khôn ngoan thiêng liêng” [5].
Sau khi phân tích Huấn ngôn I về mặt văn chương và đạo lý, tác giả Nobertô Nguyễn Văn Khanh nhận xét: “Tảng đá làm nền tảng cho huấn ngôn này là lời tuyên bố của Đức Kitô: ‘Thầy là Đường, là Sự Thật và là sự Sống’. Đức Kitô là Đấng mặc khải, dẫn đưa con người đến cùng Chúa Cha. Tuy nhiên cúng ta không còn có thể gặp Đức Kitô trong con người Giêsu như xưa, nhưng chỉ có thể gặp Người trong phép Thánh Thể” [6]. Ngoài ra, thánh Phanxicô cũng đã đề cập đến Bí tí Thánh Thể trong Di chúc, trong các thư gởi tín hữu, thư gởi các giáo sĩ, thư gởi toàn dòng mà chúng ta sẽ đề cập tới trong bài viết này.
Các di cảo kể trên là nền tảng giúp chúng ta hiểu hơn quan điểm của thánh Phanxicô về Bí tích Thánh Thể. Theo đó, cái nhìn chính yếu của ngài xoay quanh cách hiểu và cách sống Bí tích Thánh Thể.
3. Cách hiểu của Phanxicô về Bí tích Thánh Thể
Trong bối cảnh của Giáo Hội Tây phương Trung cổ, các giáo sĩ và giáo dân đang đánh mất kinh nghiệm thiêng liêng về Bí tích Thánh Thể qua việc bỏ rước lễ và quên dần tính Hy tế của Thánh thể, thánh Phanxicô đã có những cách hiểu và thực hành rất hợp với Tin Mừng và truyền thống của các Kitô hữu sơ khai. Cách hiểu của ngài rất gần gũi với quan điểm thần học hiện đại về bí tích này.
3.1. Bí tích Thánh Thể nối tiếp mầu nhiệm nhập thể
Sinh thời, khi đứng trước mầu nhiệm Nhập thể của Con Thiên Chúa làm người, thánh Phanxicô thường ngất ngây và mê say mầu nhiệm ấy. Sử gia Tô-ma Cêlanô kể lại:
“Thánh Phanxicô thường mừng đại lễ Giáng sinh của Chúa Hài Đồng với một niềm vui bao la. Ngài cho rằng đó là ngày Lễ của các lễ. Ngài thường hôn kính háo hức các bức ảnh Chúa Hài Đồng và lòng cảm thương nồng nàn đối với Hài Nhi Giêsu, khiến ngài lắp bắp thốt ra những lời âu yếm như trẻ thơ bập bẹ. Danh thánh Chúa ngọt ngào như mật ong trong miệng ngài” [7].
Từ cảm nghiệm sâu xa này ngài đi đến việc so sánh việc Đức Giêsu đến trên bàn thờ mỗi ngày với việc người đến trong cung lòng Đức Trinh nữ Mria năm xưa: “Này đây hằng ngày Người hạ mình xuống (x. Pl 2,8) như xưa Người rời ngai vàng (x. Kn 18,15) mà đến trong lòng Đức Trinh Nữ. Hằng ngày Người đến với chúng ta một cách khiêm nhường. Hằng ngày Người rời cung lòng Chúa Cha (x. Ga 1,18) để ngự xuống trên bàn thờ, trong tay linh mục” [8].
Thánh Phanxicô xem hành vi truyền phép của linh mục trên bàn thờ như lần nhập thể mới của Đức Giêsu. Ngài từ cung lòng của Chúa Cha đến ngự trong cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria. Và như thế “khi nhìn thấy Mình Thánh Chúa, thánh Phanxicô nghĩ đến Đức Kitô sinh ra từ Đức Trinh Nữ Maria. Bàn thờ giống như máng cỏ, nơi đó Con của Chúa Cha đến với loài người hôm nay” [9]. Để rồi từ bàn thánh đó chúng ta cũng được cưu mang Con Thiên Chúa như là mẹ của Ngài khi tiếp rước Thánh Thể.
Cái nhìn này về sau được Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II triển khai rõ hơn trong Thông điệp Ecclesia de Eucharistia:
“Khi truyền tin, Đức Maria cưu mang Con của Thiên Chúa trong thực tại thể lý là Mình và Máu Người, vì thế thể hiện trước trong chính bản thân Ngài điều xẩy ra cách bí tích ở một mức độ nào đó nơi mọi tín hữu rước Mình Máu Chúa dưới hình bán rượu” [10].
Một cái nhìn thể lý về Thánh Thể là điều mà thánh Phanxicô quan tâm. Ngài cũng đã ví việc chúng ta chiêm ngắm và đón nhận Thánh Thể như là lúc chúng ta tiếp xúc trực tiếp với Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt giống các tông đồ ngày xưa, và nhờ Thánh Thần soi dẫn chúng ta tin Ngài đang diện diện cụ thể với chúng ta:
“Như xưa, con mắt xác thịt của các thánh Tông đồ chỉ trông thấy thân xác của Người, nhưng các ngài tin rằng Người là Thiên Chúa, vì các ngài chiêm ngắm Người với con mắt được Thánh khí soi dẫn. Ngày nay cũng thế, khi con mắt xác thịt của chúng ta trông thấy bánh và rượu, chúng ta hãy biết nhìn ra và tin vững đó là Mình và Máu cực thánh, hằng sống và chân thật của Người. Đó là phương thế Chúa dùng để ở mãi với các tín hữu như chính Người đã nói: “Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (x. Mt 28,20)” [11].
Tóm lại, theo thánh Phanxicô Bí tích Thánh Thể như phương thế để Chúa Kitô tỏ mình ra cho chúng ta và ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế như Ngài đã hứa. Đây là một sự tiếp nối mầu nhiệm Nhập thể của Con Thiên Chúa và kèo dài mầu nhiệm ấy trong lịch sử và cuộc sống của con người, để rồi từ đó Phanxicô liên tưởng tới mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô.
3.2. Bí tích Thánh Thể là nghi thức tưởng niệm cuộc vượt qua của Chúa Kitô
Một cách hiểu tiếp theo của thánh Phanxicô về Bí tích Thánh Thể là nghi thức tưởng niệm cuộc vượt của Chúa Kitô. Đầy là một tưởng niệm có giá trị mang lại ơn cứa độ cho chúng ta. Cái nhìn này thể hiện qua các điểm nhấn khác nhau của ngài.
* Bí tích Thánh Thể là hy tế cứu chuộc của Giao ước mới
Chúng ta thấy trong Di cảo, thánh Phanxicô dùng đến các từ Hy lễ (Sacrificium) và Hiến tế (Sacrificare) , để chỉ Bí tích Thánh Thể và việc cử hành Thánh Thể [12]. Đó là những bằng chứng cho ta thấy Phanxicô tin Thánh Thể như một hy lễ.
Thêm nữa, trong các bản văn đề cập đến Bí tích Thánh Thể, Phanxicô không dùng từ Thánh Thể, nhưng ngài dùng từ“Mình và Máu Chúa” . Điều này diễn tả hy tế trong các Giao ước giữa con người và Thiên Chúa. Chính thánh Phanxicô cũng đã nói nhiều đến “Máu của Giao ước”, “Giao ước mới”, “Mình và Máu của Giao ước mới” . Đây cũng là những bằng chứng rõ ràng, giúp chúng ta hiểu về tính chất Giao ước của Bí tích Thánh Thể mà Phanxiô đã bàn tới. Quan điểm thần học này quả là mới lạ trong thời đại của ngài, nhưng nó lại là một đề tài đã hấp dẫn các thần học Công đồng Vaticanô II và hậu Công đồng khi họ bàn về Bí tích Thánh Thể. Mới đây nhất, Tông huấn hậu thượng Hội đồng Giám mục, Sacramentum Caritatis đã đề cập tới:
“Thật là ý nghĩa khi cùng những lời đó đã được lặp lại trong mỗi lần cử hành Thánh Lễ, lúc linh mục mời gọi chúng ta tiến đến bàn thờ: ‘Đây Chiên Thiên Chúa Đấng xoá tội trần gian. Phúc cho ai được mời đến dự bữa tiệc của Người.’ Chúa Giêsu là con chiên vượt qua đích thực đã tự nguyện hiến mình để cứu chuộc chúng ta, và vì thế đã thực hiện giao ước mới và vĩnh cửu. Bí Tích Thánh Thể chứa đựng tính mới mẻ trọn vẹn được ban cho chúng ta mỗi khi cử hành. (19)” [13].
* Bí tích Thánh Thể là nghi thức tưởng niệm tình yêu của Chúa Giêsu.
Thánh Phanxicô quan niệm rằng, vì yêu thương nhân loại, Chúa Cha đã ban Bí tích Thánh Thể cho loài người để họ tiếp nhận Con của Người, Đấng cứu chuộc họ, nên Ngài đã nhắc nhở mọi người cử hành Bí tích Thánh Thể với ý hướng ngay lành và thánh thiện: “Anh em hãy tiến dân hy lễ chân thật là Mình và Máu cực thánh Chúa Giêsu Kitô một cách cung kính với ý hướng thánh thiện và tinh tuyền...Nhờ ơn Chúa giúp anh em hãy quy hướng mọi tâm tư, tình cảm về Thiên Chúa Tối cao, chỉ ước ao làm đẹp lòng một mình Người mà thôi” [14]. Đây là một lời khuyên giúp các tín hữu đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Thầy”. Nó liên hệ đến nghi thức tưởng niệm Chúa Kitô trong thánh lễ. Theo thánh Phanxicô đây là một sự tưởng niệm mang tính sống động về sự hiện diện của Đức Kitô.
Với cái nhìn khá tinh tế về Thánh Thể, thánh Phanxicô luôn nghĩ đến việc kết hợp với Chúa Kitô Thánh Thể. Chính ngài thường rước lễ một cách sốt sắng và lòng sùng kính này của ngài lôi cuốn được nhiều người. Khi rước lễ, ngài bày tỏ tất cả sự tôn kính phải có đối với bí tích cao siêu ấy [15].
Hơn nữa, ngài đã nhiều lần nhắc đến lệnh truyền của Đức Kitô: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Và như thế, cử hành Thánh Thể là việc chúng ta đáp lại lời Chúa Giêsu và tham dự vào hy lễ thập giá của Ngài. Đó là việc tưởng niệm tình yêu cứu chuộc của Chúa Giêsu năm xưa: “Đối với thánh Phanxicô, bánh Thánh Thể là lương thực hằng ngày để tưởng nhớ đến tình yêu của Đức Kitô, đã biểu lộ trong toàn bộc cuộc sống trần gian của Người và đỉnh cao nhất là cây thánh giá” [16].
* Bí tích Thánh Thể biểu hiện tình hiệp thông huynh đệ
Bí tích Thánh Thể là nghi thức tưởng niệm tình yêu của Chúa Kitô, nên được thánh Phanxicô quan niệm là biểu tượng hằng đầu của tình hiệp thông và yêu thương huynh đệ.
Chúng ta biết, vào đại của thánh Phanxicô mỗi linh mục chỉ được quyền làm lễ riêng mỗi ngày, chưa có thánh lễ đồng tế. Nhưng thánh Phanxicô muốn mỗi ngày có một thánh lễ chung trong cộng đoàn, ở đó các anh em hiệp thông với Chúa Thánh Thể và với nhau: “Vì vậy, nhân danh Chúa, tôi hết lòng khuyến khích anh em: tại các nơi anh em ở, mỗi ngày, anh em hãy cử hành một thánh lễ mà thôi theo thể thức của Hội Thánh” [17]. Vì vậy, nhà khuyến khích các anh em linh mục tham dự thánh lễ của các anh em linh mục khác: “Nếu ở đó (trong cộng đòan) có nhiều linh mục, thì vì lòng yêu mến đối với Thiên Chúa là Tình yêu, người này hãy vui lòng dự lễ của người kia” [18]. Và như thế, việc cử hành thánh lễ chung trong cộng đoàn và nhiều linh mục tham dự một thánh lễ là nhắm đến sự hiệp thông huynh đệ trong Thánh Thể. Một tác giả đã nhận định rất hay về quan điểm này rằng: “Điều thánh Phanxicô Assisi nhắm khi muốn chỉ có một thánh lễ hằng ngày trong mỗi cộng đoàn, đó là gìn giữ mối dây bác ái huynh đệ, và mối dây ấy không tỏ lộ lúc nào cách hiển nhiên hơn là khi cùng dâng hiến hy tế Thánh Thể” [19]. Sự hiệp thông trong thánh lễ đồng tế là một nét mới được Giáo Hội khuyến khích và cổ võ từ giáo huấn của Công đồng Vaticanô II: “Việc đồng tế biểu lộ chính đáng tính hợp nhất của chức linh mục” [20]. Đấy là điều mà thánh Phanxicô đã sống và dạy anh em thực hành từ nhiều trăm năm trước nay lại được Giáo hội chính thức nhìn nhận.
Một cử chỉ khác của thánh Phanxicô vào những ngày cuối đời cũng thể hiện tình hiệp thông huynh đệ, giống như Chúa Giêsu đã cử hành trước cuộc tử nạn của Ngài. Nói đúng hơn Phanxicô đã bắt chước Chúa Giêsu. “Ngài xin anh em môt cái bánh mì, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho mỗi người một miếng nhỏ. Ngài cũng xin đọc đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan: “Trước lễ vượt qua, Chúa Giêsu.. .và người đã yêu họ đến cùng...(x.Ga 13, 1-15)” [21].
Ở đây, thánh Phanxicô bắt chước Chúa Giêsu với ý nghĩa là hiệp thông anh em trong lúc anh em của ngài đang hoang mang vì gần phải xa cách người cha yêu dấu. Chính sử gia Tôma Cêlanô đã nhận thấy điều này: “Ngài làm như thế để tưởng niệm bữa Tiệc ly mà Chúa đã cử hành với các môn đệ Ngài làm những cử chỉ ấy để tưởng nhớ đến Chúa và để cho các anh em của ngài thấy lòng ngài yêu thương họ đến chừng nào”. Thực vậy, thánh Phanxicô xem Bí tích Thánh Thể là chứng cứ tối cao của tình thương mà Chúa Kitô dành cho các môn đệ. Vì thế, khi thấy anh em khóc than đau đớn, ngài không biết làm gì hơn là lặp lại cùng một cử chỉ yêu thương của Chúa Kitô: “cử chỉ bẻ bánh” . Điều này cũng được thể hiện trong sách Gương trọn làng: “Như Chúa đã muốn dùng một bữa ăn cuối với các môn đệ vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh trước khi chịu chết, để làm dấu chứng tỏ tình yêu thương của Người, thánh Phanxicô, con người noi gương Chúa cách hoàn hảo, cũng muốn nêu lên cùng một dấu chứng tỏ tình thương như vậy” [22]. Đây là một việc làm có một không hai trong lịch sử mà vị thánh nghèo muốn bắt chước Chúa Giêsu để tỏ bày tình yêu thương chân thành của ngài với anh em đang quay quần bên giường bệnh của mình.
Chiều kích hiệp thông huynh đệ của Bí tích Thánh Thể ngày nay cũng được Giáo Hội nhấn mạnh: “Nơi các đoàn thể đó, tín hữu được tụ họp lại nhờ sự rao giảng Phúc âm Chúa Kitô và mầu nhiệm Tiệc thánh Chúa được cử hành, để nhờ Thịt và Máu Chúa, tất cả kết thành huynh đệ và thành một thân thể. Chúa Kitô vẫn hiện diện trong các cộng đoàn ấy, dù nhỏ bé nghèo hèn hay tản mác khắp nơi. Và nhờ Thần lực Người, Giáo Hội hiệp thành duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền” [23].
Thật vậy, đây là một chiều kích mà các nhà thần học hiện nay quan tâm, vì chúng có tầm quan trọng trong đời sống của các Kitô hữu. Một tác giả đã diễn tả rất hay quan điểm này rằng:
“Bí tích thánh thể biểu hiện hiệp thông nên chúng ta có thể nói về sự hiện diện của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể như là sự đồng hiện diện với Giáo Hội, hiện diên cho Giáo Hội và vì Giáo hội. Đồng thời Chúa Kitô là tấm bánh được bẻ ra trao cho mọi người, nên Bí tích Thánh Thể không chỉ biểu đạt sự quan hệ giữa Thiên Chúa và con người, nhưng còn là biểu đạt tính duy nhất của mỗi người trong tương quan với cộng đồng” [24].
Từ chiều kích hiệp thông huynh đệ, thánh Phanxicô đưa chúng ta đến một sự liên kết mới là Thánh Thể và Lời Chúa.
* Bí tích Thánh Thể và Lời Chúa
Đây là một trong những nét đặc biệt của thánh Phanxicô khi ngài hiểu về Bí tích Thánh Thể. Chúng ta thấy sau Công đồng Vaticanô II, Giáo Hội mới đề cao Lời Chúa và trả lại cho Lời Chúa tầm quan trọng ngang tầm với Thánh Thể trong cử hành thánh lễ. Thế nhưng, thánh Phanxicô từ thế kỷ 12 đã tôn kính Lời Chúa như một bí tích ngang tầm với Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa. Thực vậy, mỗi lần thánh Phanxicô nói đến Bí tích Thánh Thể, đồng thời ngài cũng nói đến “các Lời Chí Thánh của Chúa”.
Theo thánh Phanxicô thì Lời Chúa được hiểu theo nghĩa rộng, Lời Chúa trong Kinh Thánh, trong phụng vụ trong lời giảng dạy. Ngài nhắc đến lời trong công thức truyền phép Thánh Thể của linh mục: “Chúng ta biết rằng không thể có thân mình Chúa, nếu trước tiên không có lời truyền phép.” [25]; trong các bản văn phụng vụ; trong lời giảng dạy của các nhà thần học và các nhà giảng thuyết [26].
Từ đó, chúng ta thấy, thánh Phanxicô nhìn thấy trong Kinh Thánh một sự hiện diện sống động, sự hiện diện của Đức Kitô và ngài đã từng đến với Kinh Thánh như đến với Đức Kitô: “Để kiểm chứng lời tôi nói, sáng mai chúng ta đến nhà thờ, mở sách Phúc Âm và chúng ta sẽ xin lời khuyên của chính Chúa Kitô” [27].
Hơn nữa, mỗi lần đề cập đến Mình và Máu Thánh Chúa, thánh Phanxicô đều nói đến Lời Thánh Thiện của Chúa: “Thật vậy, chúng ta không có cũng không thấy được điều gì cụ thể về chính Đấng Tối cao ở đời này, ngoài Mình và Máu Chúa, những Danh hiệu và những Lời của Ngài: nhờ những bảo vật ấy, chúng ta đã được dựng nên, được cứu thoát khỏi chết và dẫn đưa vào cõi sống (x. 1Ga 3,14).” [28]. Theo các nhà thần học thời Trung cổ thì sự hiện diện “cách thể lý” là nói về sự hiện diện của Thiên Chúa trong Bí tích Thánh Thể sau khi đã truyền phép, nhưng đối thánh Phanxicô thì sự hiện diện này đồng thời cả trong “những Danh hiệu và Lời của Người”. Như thế, đối với thánh Phanxicô những Lời thần linh cũng là dấu hiệu thể lý của Con Thiên Chúa, tương đương với Bí tích Thánh Thể. Mối liên hệ mật thiết trong tâm tưởng của thánh Phanxicô giữa Bí tích Thánh Thể và Lời Chúa cũng có một giá trị bí tích trong đó ngài gặp được sự hiện diện của Con Thiên Chúa.
Đây là một nét mới của thần học sau Công đồng Vaticanô II; Giáo Hội nhìn nhận giá trị ngang nhau của Thánh Thể và Lời Chúa trong thánh lễ như những nguồn lương thực thần linh cho con người: “Thánh lễ gồm hai phần, phần phụng vụ Lời Chúa và phần phụng vụ Thánh Thể được liên kết chặt chẽ đến nỗi chỉ tạo thành một hành vi phụng thờ duy nhất” [29].
* Tóm lại, thánh Phanxicô đã có một đức tin mãnh liệt vào chiều kích tưởng niệm cuộc vượt qua của Đức Giêsu trong Bí tích Thánh Thể từ rất sớm. Đó cũng là điều mà Công đồng Vaticanô II quan tâm và nhấn mạnh:
“Trong bữa tiệc sau hết, vào đêm bị nộp, Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã thiết lập Hy Tế Tạ Ơn bằng Mình và Máu Người, để nhờ đó, Hy Tế Thập Giá kéo dài qua các thời đại cho tới khi Người lại đến, và cũng để ủy thác cho Hiền Thê yêu quý của Người là Hội Thánh tưởng nhớ sự chết và phục sinh của Người: đây là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc Vượt Qua. Trong tiệc này, chúng ta nhận được Chúa Kitô làm của ăn, được tràn đầy ân sủng và được bảo đảm vinh quang tương lai" [30].
Ở điểm này, chúng ta thấy có một sự gặp gỡ nào đó giữa tư tưởng của thánh Phanxicô và quan niện thần học của Công đồng về chiều kích hy tế của Thánh Thể. Như thế, giáo huấn của Công đồng Vaticanô II đã làm mới lại và phong phú hoá quan điểm của Phanxicô về mầu nhiệm vượt qua của Thánh Thể hay mang có chiều kích hy tế của Thánh Thể một sự mới mẻ về ý nghĩa vốn có của nó.
Từ những cách hiểu sâu sắc về Bí tích Thánh Thể nói trên, thánh Phanxicô không dừng lại ở đó, nhưng tiến xa hơn nữa, bằng cách sống những điều mình đã hiểu và cảm nghiệm về Bí tích Cực Thánh này.
4. Thánh Phanxicô sống Bí tích Thánh Thể
Chúng ta có thể xem xét mối tương quan thân mật của thánh Phanxicô và mầu nhiệm Thánh Thể trong cuộc đời thánh Phanxicô theo ba cách thức chính yếu, mà ngài đã sống sau khi hoán cải và được ngài nhắc lại trong Di Chúc.
4.1. Rước lễ thường xuyên
Trong một bối cảnh mà mọi người đang xa rời Bí tích Thánh Thể và xem đó như một biểu tượng để thờ lạy, thì thánh Phanxicô lại có một sự kết hợp mật thiết và gần gủi với Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa. Điều này thể hiện qua việc ngài thường xuyên tiếp rước Mình Thánh Chúa: “Theo ngài (thánh Phanxicô) sẽ là một sự xúc phạm lớn đến với Bí tích này nếu không tham dự tất cả mọi ngày ít nhất một thánh lễ. Chính ngài rước lễ thường xuyên và lòng sùng mộ của ngài lôi cuốn được nhiều người” [31]. Tuy nhiên, chúng ta nhận thấy thái độ này của thánh Phanxicô có liên quan đến quy định của Công đồng Latêranô IV (mà ngài đã tham dự) là xưng tội một năm ít là một lần và rước lễ trong Mùa Phục Sinh, để chỉnh đốn lại tình trạng các tín hữu bỏ không rước lễ [32].
Đây là một việc làm trông có vẻ rất bình thường với chúng ta hôm nay, nhưng trong thời đại thánh Phanxicô, Giáo Hội khuyên rước lễ trong Mùa Phục sinh, nghĩa là việc rước lễ không có tính thường xuyên và việc làm của thánh Phanxicô đã thực sự đi ngược lại cảm thức của các Kitô hữu thời ngài để sống tinh thần của Công đồng. Cách thức thực hành này mãi tới mấy thế kỷ sau Giáo Hội mới mời gọi con cái mình thực hành trong đời sống đức tin. Giáo huấn của Công đồng Vatican II dạy: “Rất đáng khuyến khích các tín hữu tham giữ thánh lễ hoàn hảo hơn, bằng cách sau khi linh mục rước lễ, họ cũng lãnh nhận Mình Máu Chúa trong cùng một Hy lễ đó” [33]. Gần đây, Huấn thị Bí Tích cứu chuộc cũng nhấn mạnh thêm việc rước lễ khi tham dự thánh lễ: “Chắc chắn thật là tốt nếu những ai tham dự thánh lễ nên rước lễ trong buổi cử hành đó, miễm là họ hội đủ mọi điều kiện cho phép họ rước lễ” [34].
Chính hành vi thường xuyên tiếp rước Mình Thánh Chúa mà thánh Phanxicô đã có một mối dây tình yêu thân thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể. Từ đây, xuất phát lòng tin mạnh mẽ của ngài vào các Nhà Thờ, nơi có Chúa Giêsu hiện diện trong nhà tạm.
4.2. Lòng tin vào các Nhà Thờ
Thánh Phanxicô có một lòng tin mãnh liệt vào các nhà thờ, vì ngài tin rằng ở đó có sự hiện diện của Chúa Giêsu Thánh Thể Điều này được ngài đề cập đến trong Di chúc: “Chúa đã ban cho tôi lòng tin mạnh mẽ đối với các nhà thờ, vì thế tôi cầu nguyện một cách đơn sơ rằng: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con thờ lạy Chúa trong hết mọi nhà thờ trên hoàn cầu. Chúng con chúc tụng Chúa vì Chúa đã dùng cây Thánh giá mà cứu chuộc thiên hạ” [35]. Sau khi thánh Phanxicô nhắc đến nhà thờ và thánh giá thì ngài nói đến linh mục và phép Mình Thánh Chúa, vì thế chúng ta tin chắc rằng ở đây thánh Phanxicô nói đến Chúa Giêsu Thánh Thể [36].
Từ chỗ tin vào sự hiện diện của Chúa trong các nhà thờ, thánh Phanxicô khuyên các tín hữu năng viếng các nhà thờ và tôn trọng các linh mục vì các ngài là thừa tác của Bí tích Thánh Thể: “Chúng ta phải năng đi viếng các nhà thờ, tôn kính và quí trọng các giáo sĩ, không phải vì bản thân các ngài bao nhiêu vì các ngài có thể là những người tội lỗi, nhưng chính là vì thánh chức và nhiệm vụ của các ngài đối với Mình và Máu rất thánh của Đức Kitô mà các ngài dâng hiến trên bàn thờ, nhận lấy và ban phát cho kẻ khác. Tất cả chúng ta phải biết chắc rằng: không ai có thể được cứu độ nếu không phải là nhờ các lời thánh thiện và Máu của Chúa Giêsu Kitô mà các giáo sĩ đọc, rao giảng và ban phát.” [37].
Đây là một lời khuyên thể hiện lòng tin tưởng của thánh nhân vào Chúa Giêsu Thánh Thể trong các nhà thờ. Mãi về sau nó mới trở thành một việc làm đạo đức được phổ biến rộng rãi trong Giáo Hội. Chúng ta biết, ngay từ lúc sinh thời, thánh Phanxicô đã xin Đức Giáo hoàng cho phép những ai đến viếng nhà thờ Đức Bà các Thiên thần (của Dòng) thì được ơn đại xá. Ngày nay hành vi đạo đức này đã được Giáo Hội nhìn nhận và phổ biến khắp nơi. Việc viếng Thánh Thể hay viếng nhà thờ đã trở thành một hành vi đạo đức bình dân mang tính thường xuyên của các Kitô hữu trên khắp thế giới.
4.3. Lòng tin vào các linh mục
Tiếp theo lòng tin vào các nhà thờ, thánh Phanxicô đề cập đến lòng tin vào các linh mục như những người có quyền truyền phép và trao ban Mình Máu Thánh Chúa cho người khác. Đây là một biểu hiện lòng tin của ngài vào Bí tích Thánh Thể.
Trong Di chúc ngài nói lên thái độ tùng phục các linh mục một cách mau mắn: “Dù tôi có khôn ngoan như Salômon, nếu tôi gặp các linh mục thấp kém ở thế gian này, tôi cũng không muốn giảng dạy trong giáo xứ của các ngài, nếu các ngài không chấp thuận” [38]. Sở dĩ thánh Phanxicô kính mến các linh mục là vì những lý do khác nhau:
Thứ nhất, ngài nhận thấy Chúa Kitô hiện diện trong các linh mục, dù cho cuộc sống của các vị ấy không xứng đáng: “Tôi muốn kính sợ, yêu mến và quý trọng các ngài cũng như tất cả các linh mục khác như là tôn chủ của tôi. Tôi không muốn xem xét tội lỗi của các ngài; vì tôi nhìn thấy Con Thiên Chúa hiện diện nơi các ngài” [39].
Kế đến, thánh Phanxicô nhìn con người của linh mục qua chức vụ cử hành Bí tích Thánh Thể và ban phát Lời Chúa: “Hỡi anh em linh mục, xin hãy nghĩ đến chức vụ cao trọng của anh em và hãy sống thánh thiện vì Thiên Chúa là Đấng thánh thiện. Thiên Chúa đã trọng đãi anh em hơn mọi người vì chức vụ ấy” [40].
Từ đó, chúng ta nhận thấy, thánh Phanxicô có một lòng tin mạnh mẽ vào các linh mục. Lòng tin này bắt nguồn từ lòng tin của ngài vào Bí tích Thánh Thể. Đây là một quan điểm đi ngược lại với lịch sử nước Ý lúc bấy giờ: có nhiều người đã nổi dậy chống các linh mục bất xứng [41].
Thần học của Vaticanô II cũng đã nhấn mạnh vai trò của linh mục trong Thánh Thể qua Sắc lệnh đời sống linh mục: “Nhờ thừa tác vụ của các linh mục, hy tế thiêng liêng của các tín hữu được hoàn tất vì kết hiệp với Hy tế của Chúa Kitô, Đấng Trung gian duy nhất; hy tế này nhờ tay các linh mục, nhân danh Giáo Hội, hiến dâng một cách bí tích và không đổ máu trong bí tích Thánh Thể, cho tới khi Chúa lại đến. Chính việc tế lễ này là điểm nhắm tới và hoàn tất của tác vụ linh mục” [42].
* Tóm lại, niềm say mê Chúa Kitô trong phép Thánh Thể đã kết tinh trong các thực hành rất cụ thể và sống động nơi thánh Phanxicô từ nhiều thế kỷ trước. Tinh thần này của của ngài ngày hôm nay Giáo Hội lại hết mực quan tâm và mời gọi con cái mình ý thức và thực hành:
“Giáo Hội hằng bận tâm lo cho các Kitô hữu đừng tham dự vào mầu nhiệm đức tin ấy như những khách bàng quan, câm lặng, nhưng nhờ hiểu thấu đáo mầu nghiệm mầu nhiệm đó qua nghi lễ và kinh nguyện sao cho họ tham dự hoạt động thánh cách ý thức, thành kính và linh động, cho họ được đào luyện bởi Lời Chúa, được bổ sức nơi bàn tiệc Mình Chúa” [43].
III. MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH
Cái nhìn của thánh Phanxicô về Bí tích Thánh Thể trải rộng trong các Di cảo của Ngài. Việc ta “lục lọi” trong các tác phẩm đó để tìm kiếm những “viên ngọc ẩn dấu” là một việc làm khó khăn không chỉ riêng ai, vì sự tinh tế và nhạy bén của ngài về Thánh Thể luôn mang tính vượt thời gian. Và như thế càng tìm kiếm chúng ta càng thấy tư tưởng của ngài “ẩn hiện’ trong các quan điểm thần học của Công đồng Vatican II và các nhà thần học hậu Công đồng.
1. Những “tia sáng” trong bầu trời âm u
Đặt quan điểm và cách thực hành niềm tin của thánh Phanxicô vào trong bối cảnh Giáo Hội Rôma thời Trung cổ, người viết nhận thấy đức tin của thánh Phanxicô đối với Bí tích Thánh Thể là một cuộc “cách mạng” thần học về bí tích này. Sống trong một thời đại mà mọi người đang có những quan điểm lạc xa với Thánh Thể, lòng tin và sống Bí tích Thánh Thể một cách trung thành và sáng tạo của thánh Phanxicô là một cái nhìn táo bạo, mang tính “vượt thời gian” về mầu nhiệm Thánh Thể của Chúa Kitô.
Chúng ta biết, các tín hữu và các giáo sĩ thời bấy giờ có khuynh hướng tách rời Bí tích Thánh Thể ra khỏi lịch sử chung của ơn cứu độ, hoặc vì chỉ thấy vị Chúa vinh quang để thờ lạy và chiêm ngắm, hoặc vì chỉ nhìn thấy bí tích này như một thứ lương thực thiêng liêng giúp cho cá nhân tiến bộ trên đàng nhân đức, nhưng lại không thấy hay ít thấy chiều kích hy lễ và chiều kích hiệp thông của Bí tích Thánh Thể [44]. Và như thế, cách hiểu và sống Bí thích Thánh Thể của thánh Phanxicô như những “tia sáng” hiếm hoi trong bầu trời Trung cổ âm u. Nhưng những tia sáng đó lại có sức lan toả mãnh liệt vào trong thâm sâu của lòng người, và nó như đang cưu mang một niềm hy vọng vào một buổi bình minh rực rỡ của thần học về Bí Tích Thánh Thể.
2. Một “bình minh” ló rạng
Có thể nói, với Hiến Chế Phụng Vụ Thánh, một văn kiện đầu tiên của Vaticanô II, Giáo Hội đã kết liễu một kỷ nguyên, khi kêu gọi thay đổi phụng vụ cách triệt để hơn bất cứ một cuộc thay đổi nào trong bốn thế kỷ trước đó. Từ đó, quan điểm thần học về Phụng vụ nói chung và Thánh Thể nói riêng được quan tâm, suy tư và cải tổ, để trở thành “thực tại thần linh” sống động và uyển chuyển trong đời sống đức tin của các tín hữu. Sự đa dạng hoá đã trở thành luồng gió mát xua tan những ngột ngạt của sự đồng nhất trong phụng vụ vốn là một nguyên tắc cứng nhắc trong Giáo Hội trước đó.
Trong Thánh Thể, sự canh tân đã xuất hiện: “Thánh lễ bằng tiếng La tinh đã được dịch sang các ngôn ngữ hiện đại, phụng vụ bắt đầu đơn giản và hiện diện hơn, có tính Kinh Thánh và tạ ơn hơn, nhấn mạnh đến các bài đọc Kinh Thánh và việc hiệp lễ hơn là việc truyền phép. linh mục được khuyến khích đồng tế, và giáo dân được mời gọi tham gia” [45]. Công đồng đã nhấn mạnh các chiều kích khác nhau của Thánh Thể. Trong số đó, chiều kích hy tế và chiều kích hiệp thông (tham gia) của Bí tích Thánh Thể, điều mà thánh Phanxicô đã tin và đã sống từ hơn 800 năm trước, lại là những điểm nhấn của Công đồng Vaticanô II trong các văn kiện khác nhau như đã nói ở trên.
Dẫu biết rằng những chiều kích căn bản này của Bí tích Thánh Thể đã được các Kitô hữu tiên khởi tuyên nhận và sống; các Giáo phụ đã ít hay nhiều bàn đến, nhưng thánh Phanxicô không phải là một nhà thần học đúng nghĩa, ngài không khảo cứu nhiều về thần học và chắc rằng ngài không trực tiếp làm việc trên các tài liệu này. Hơn nữa, trong một bối cảnh mà người ta có nhiều lối giải thích sai lệch về Bí tích Thánh Thể, mà ngài vẫn giữ được những “hạt ngọc” tư tưởng rất gần với quan điểm của thần học hiện đại về Bí tích Thánh Thể. Sự gặp gỡ mang tính “kỳ ngộ” giữa niềm tin yêu và sống của thánh Phanxicô vào Thánh Thể và quan niện của thần học hiện đại không phải là một sự tình cờ, nhưng do cả hai cùng có chung một nguồn liệu vô cùng quan trọng là Kinh Thánh. Đây cũng là điều dễ hiểu khi thánh Phanxicô là một tâm hồn được thấm nhuần Kinh Thánh, đến nỗi những lời nói của ngài luôn mang dáng dấp lời Kinh Thánh; còn xu hướng thần học Bí tích nhất là Thánh Thể sau Công đồ Vaticanô II lại nỗ lực trở về nguồn Kinh Thánh và Giáo Phụ để tìm lại kinh nghiệm thuở ban đầu.
Có thể nói, “bình minh” của Bí tích Thánh thể đã chiếu soi vào đời sống các Kitô hữu hôm nay từ cột mốc quan trọng của Công đồng Vatican II; và nó đã có một sức lan toả diệu kỳ làm tươi mát đời sống tâm linh của bao người. Và như thế, một cách nào đó tư tưởng của vị thánh nghèo đã gợi hứng cho những nỗ lực của Giáo Hội trong khi tìm về cội nguồn của Bí tích Thánh Thể trong Kinh Thánh và Giáo phụ.
IV. KẾT LUẬN
Từ việc tìm hiểu tư tường của thánh Phanxicô về Bí tích Thánh Thể, người viết nhận thấy rằng: Sự bén nhạy của thánh Phanxicô về Bí tích Thánh Thể là kết quả của một tâm hồn say mê Đức Kitô cho đến lúc được đồng hình đồng dạng với Ngài khi nhận năm dấu thánh vào năm 1224.
Hơn nữa, ngài cũng đã được thấm nhuần sâu xa giáo huấn truyền thống của Giáo Hội mà ngài đã tiếp nhận qua Phụng vụ, qua Phúc Âm, nhất là Tin Mừng Gioan. Thánh Phanxicô luôn đặt Bí tích Thánh Thể trong toàn bộ lịch sử cứu độ và coi bí tích ấy như là sự tiếp nối của biến cố Nhập Thể và vẫn hiện tại hóa trong đời sống của chúng ta nhờ Bí tích Thánh Thể:
“Ý Chúa Cha là Chúa con hiển phúc và vinh quang mà người ban cho chúng ta và đã sinh ra cho chúng ta (đây là mầu nhiệm nhập thể), lấy máu mình mà hy tế và lễ vật đâng trên bàn thờ thập giá (mầu nhiệm cứu chuộc bằng cây thập giá), Không phải vì bản thân Người, chính nhờ Người mà vạn vật được tạo thành (đây là công cuộc tạo dựng), nhưng vì tội lỗi chúng ta. Người đã để lại một gương mẫu cho chúng ta dõi bước theo Người. Chúa Cha cũng muốn tất cả chúng ta được Chúa con cứu độ và tiếp nhận Con của Người với tâm hồn tinh tuyền và thể xác thanh sạch (đây là ơn cứu độ nhờ Bí tích Thánh Thể”.
Mầu nhiệm Thánh Thể dường như đã thấm nhập và sinh hoa kết trái trong con người thánh Phanxicô năm nào, giờ đây “bàng bạc” trong các văn kiện của Công Đồng Vaticanô II. Và đến lượt mình, nó lại thấm nhập, bén rễ và sinh hoa kết quả trong đời sống của mọi thành phần Dân Chúa trong thế giới hôm nay.
Thiết nghĩ, việc tìm hiểu quan điểm cùa thánh Phanxicô về Bí tích Thành Thể là dịp thuận tiện giúp chúng ta hiểu biết hơn về một con người đã có những cái nhìn “vượt thời gian” về mầu nhiệm Thánh Thể; và như thế ngài trở thành một mẫu gương tuyệt vời về cách hiểu, cách cảm và cách sống bí tích Tình Yêu cho chúng ta hôm nay.
Hơn nữa, việc làm này cũng giúp chúng ta đào sâu quan niện thần học của Giáo Hội ngày nay về Thánh Thể. Ngõ hầu Thánh Thể trở thành một nguồn mạch sức sống mới tuôn chảy trên cuộc đời chúng ta và mở ra cho chúng ta một chân trời mới trong hành trình sống và loan báo tình yêu và niềm hy vọng của Bí tích Thánh Thể cho thế giới hôm nay, như lời mời gọi của Đức Bênêđictô: “Chúng ta hãy khích lệ lẫn nhau hân hoan sánh bước, lòng đầy ngạc nhiên, đến gặp Thánh Thể để có thể cảm nhận cũng như loan báo cho người khác sự thật về những Lời Chúa Giêsu đã nói khi Người từ biệt các môn đệ: ‘Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế’”.
Chú thích:
[1] Nguyễn Văn Khanh, Chúa Giêsu Kitô trong tư tưởng thánh Phanxicô Asissi, luận án tiến sĩ, 1973, Nguyễn Gia Thịnh dịch, Tủ sách Phansinh, 2003, tr 286.
[2] Sđd, tr 287.
[3] Sđd, tr 290-291
[4] Nguyễn Đức Thông, Kết duyên, Các bí tích gia nhập đạo, 2007, tr 234.
[5] Kajatan Esser, Chú Giải Luật Dòng Phan sinh, Bản dịch của Trần Hữu Phương, Tủ sách Phan sinh, 2002.
[6] Nguyễn Văn Khanh, Sđd, tr 309.
[7] Tôma Cêlanô, Truyện ký thánh Phanxicô, cuốn I, (1Cl) Bản dịch của Nguyễn Gia Thịnh, Tủ sách Phansinh 2004, số 84 -86.
[8] Thánh Phanxicô, Huấn ngôn I (Hn 1), 16-18.
[9] Nguyễn Văn Khanh, Sđd, tr 311.
[10] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, số 55.
[11] Hn 1, 20-22.
[12] X. Hy lễ: Thư gởi các tín hữu, bản gốc 2 (2TTh), 11; Thư toàn dòng (TTd), 14; Thư thứ nhất gởi các anh Tổng Phục vụ (1TTpv), 3; Hiến tế: Thư gởi các tín hữu, bản gốc 2 (2TTh), 4; 1TTpv 2, Thư gởi các Giáo sĩ, bản gốc 2 (2TGs), 4.
[13] Tông huấn hậu thượng Hội đồng Giám mục, Sacramentum Caritatis, số 9.
[14] TTd 14,16.
[15] x. 2 Celanô 201
[16] Nguyễn Văn Khanh, Sđd, tr 324.
[17] TTd 30.
[18] TTd, 31.
[19] X. Nguyễn Văn Khanh, Sđd, tr 326.
[20] PV 57.
[21] 2 Cel 217; GT 88.
[22] Sách Gương trọn lành, l 88.
[23] GH 26
[24] Vũ Chí Hỹ, Thánh thể Bí tích của niềm hy vọng cánh chung, bài giảng. 2008.
[25] 1TGs 1-2.
[26] x.Dc 12 - 13
[27] 2 Celanô 15.
[28] 1TGs 3.
[29] PV 56.
[30] PV 47.
[31] 2Cel 201.
[32] Nguyễn Văn Khanh, Sđd, tr 329.
[33] PV 55.
[34] Thánh bộ Phượng Tự và Bí Tích, Huấn thị Bí tích Cứ chuộc, năm 2004, số 83.
[35] Thánh Phanxicô, Di chúc (Dc), 4.
[36] X. Nguyễn Văn Khanh, Sđd, tr 334.
[37] 2TTh 33-35.
[38] Dc 7.
[39] Dc 9-9.
[40] TTd 23.
[41] X.Nguyễn Văn Khanh, Sđd, tr 341.
[42] LM 2.
[43] PV 48.
[44] Nguyễn Văn Khanh, Sđd, tr 342.
[45] Nguyễn Đức Thông, Kết duyên, Sđd, tr 268.
[46] 2TTh 11-14, (Chú giải thêm của Nguyễn Văn Khanh.)
[47] Sacramentum Caritatis, Sđd, số 97.