Chủ Nhật, 24 tháng 2, 2013

Hiến hơn 2 tỉ USD làm từ thiện

Hiến hơn 2 tỉ USD làm từ thiện


Tỉ phú Ấn Độ Azim Premji vừa tuyên bố hiến số cổ phần trị giá 2,3 tỉ USD ở Tập đoàn công nghệ thông tin Wipro cho một tổ chức từ thiện chuyên hỗ trợ đào tạo giáo viên và xây dựng trường học cho các vùng nghèo khó ở nước này.

Theo AFP, hồi năm 2010, ông cũng đã chi 2 tỉ USD cho một tổ chức thiện nguyện mang tên mình.
Theo thống kê năm 2012 của tạp chí Forbes, tỉ phú Premji là người giàu thứ 3 Ấn Độ và đứng thứ 41 trên thế giới với tài sản 16 tỉ USD. Gần đây, ông đã tham gia vào câu lạc bộ từ thiện Giving Pledge do 2 tỉ phú Bill Gates và Warren Buffet đồng sáng lập.
Tỉ phú giàu thiện tâm Azim Premji
Tỉ phú giàu thiện tâm Azim Premji - Ảnh: Forbes 
Ông Premji nhận định khi tham gia vào câu lạc bộ: “Người giàu nên đóng góp để giúp những người kém may mắn có điều kiện sống tốt đẹp hơn”.
Lan Chi

CPS TRẺ GÓP LỬA...ĐỐT TẾT !!!

CPS TRẺ GÓP LỬA...ĐỐT TẾT !!!


Như truyền thống,ACE.CPS Trẻ (sau 75) họp mặt Chủ nhật thứ 2 sau TẾT. Năm nay,ACE dành cho "Giám ...chơi"(?) một vinh dự:thay vì họp mặt tại nhà 01 ACE.CPS trẻ,ACE kéo về "Nhà chung"(nhà AC.Phiên Thu).Cuộc họp mặt quy tụ 30 ACE.CPS trẻ (Vợ,chồng,con cái); đương nhiên một số CPS.già cũng "ham dzui" góp mặt.Đặc biệt hơn mọi năm,có sự góp mặt của ca đoàn già (ca đoàn A.NHI có công gầy dựng hồi còn là chú chủng sinh Phanxicô).Cám ơn Chúa đã ban cho già,trẻ,lơn ,bé,trong,ngoài... được sống một buổi tối chan hòa tình thân.Thánh Lễ cầu BÌNH AN cho CPS đầu năm do Cha Giám đốc Học viện Phanxicô cử hành.

Mời ACE xem hình :
                                                           Tập hát trước Thánh Lễ      
                                                         

                                         
                                                             Cháu ngoan dự Lễ

                                                             
                                                                    Hình lưu niệm
                                                 CPS.già Nguyễn Trọng Đa thích..."sung"
                                                                       
                                          Quá là vui.....

 
 
"Tham ăn" quá cỡ !!!!!
                                                    
                                                                          Lì xì Tết
                                                                       

                                                                  

                                                                 Hàn huyên tâm sự

Thứ Bảy, 23 tháng 2, 2013

Thí nghiệm tâm lý bộc lộ sự xấu xa của con người

Thí nghiệm tâm lý bộc lộ sự xấu xa của con người

CPS.SIMONE HÒA gửi

Lời giải cho việc tại sao chúng ta trở nên vô cảm và làm điều ác...

Người xưa từng nói “nhân chi sơ, tính bản thiện”, tức ai sinh ra cũng đều là người tốt. Tuy nhiên trong cuộc sống, chúng ta vẫn bắt gặp những câu chuyện thương tâm về sự vô cảm hay hành động mất nhân tính.

Để hiều hơn về vấn đề này, các nhà tâm lý học đã thực hiện những thí nghiệm để biết được trong điều kiện nào, con người dễ bộc lộ những điều xấu ở chính mình. 
 
1. Tâm lý đám đông
 
Tâm lý đám đông là hiện tượng con người nói theo hoặc bắt chước hành động của những người xung quanh. Vào thập niên 1950, nhà tâm lý học Solomon Asch đã tiến hành một thí nghiệm thú vị về hiện tượng này. 
 
Thí nghiệm tâm lý bộc lộ sự xấu xa của con người 1
 Câu trả lời của người tình nguyện viên bị ảnh hưởng bởi các "diễn viên" ngồi bên cạnh.
 
Ông yêu cầu một nam sinh viên cùng những người bạn của anh ta bước vào một căn phòng và trả lời các câu hỏi đơn giản. Người tham gia thử nghiệm không hề biết rằng, Asch sẽ ra hiệu cho tất cả những sinh viên khác thỉnh thoảng cùng đưa ra các đáp án sai cho một câu hỏi tưởng chừng rất dễ.
 
Kết quả thật bất ngờ, những người sinh viên tham gia thí nghiệm đã trả lời sai 1/3 số câu hỏi, trong khi cùng bộ câu hỏi ấy, những người không ở trong “căn phòng diễn viên” chỉ làm sai với tỉ lệ 1/35. 
 
2. Thờ ơ với bất hạnh
Ngày nay, nhiều người cho rằng, “Lòng tốt trở thành thứ xa xỉ khi cuộc sống trở nên quá gấp gáp”. Để chứng minh câu nói này, hai nhà khoa học John Darley và C. Daniel Batson đã dàn dựng một thí nghiệm thú vị.
Thí nghiệm tâm lý bộc lộ sự xấu xa của con người 2Thí nghiệm còn có tên gọi "Người Samaritan tốt bụng", dựa theo một câu chuyện trong Kinh Thánh.
 
Họ tuyển hai nhóm sinh viên tham gia một bài trắc nghiệm rồi yêu cầu họ đi bộ sang khu nhà khác để làm tiếp phần hai. Trên đường đi, một diễn viên sẽ đóng vai người ốm nặng nằm trên phố.

Những thành viên của nhóm 1 được yêu cầu sang ngay toà nhà kia vì đã bị muộn giờ, còn nhóm 2 được nói rằng, họ vẫn còn thời gian.
 
Thí nghiệm tâm lý bộc lộ sự xấu xa của con người 3Khi vội vã, chúng ta ít giúp đỡ người khác hơn.
 
Kết quả là chỉ có 10% những người ở nhóm 1 dừng lại và giúp đỡ “người bệnh” còn nhóm 2 thì tỉ lệ này là 40%. 
 
3. Hiệu ứng người ngoài cuộc
Năm 1968, hai nhà khoa học John Darley và Bibb Latané yêu cầu một nữ diễn viên thể hiện sự đau đớn trong một căn phòng với các tình nguyện viên tham gia thí nghiệm.

Họ nhận thấy một sự điều kì lạ: phòng càng đông người thì số lần người phụ nữ nhận được sự giúp đỡ càng ít đi. 
Thí nghiệm tâm lý bộc lộ sự xấu xa của con người 4Sự thờ ơ với một người vô gia cư trên phố.
 
Hiện tượng trên được biết đến với tên gọi “hiệu ứng người ngoài cuộc” trong tâm lý học. Khi có người bị nạn, những người chứng kiến có ý nghĩ “ai đó sẽ giúp chứ không phải tôi”.
 
Thí nghiệm tâm lý bộc lộ sự xấu xa của con người 5"Hiệu ứng người ngoài cuộc" được ghi nhận ở tại khắp nơi trên thế giới.
 
Suy nghĩ này càng được củng cố ở nhưng nơi đông người và hậu quả là “sự vô cảm của xã hội”, người bị nạn không được cứu dù có rất nhiều người xung quanh. Một ví dụ về hiện tượng này là câu chuyện bé gái Wang Yue Yue bị xe đâm và bỏ mặc trên phố năm 2011 tại Trung Quốc. 
 
4. Thí nghiệm nhà tù
Năm 1971, 24 nam sinh viên của ĐH Stanford (Mỹ) tham gia một cuộc thử nghiệm mà trong đó họ đóng vai những tù nhân và người cai ngục. Mục đích của thí nghiệm nhằm tìm hiểu nguyên nhân và cách xử lý những vụ lộn xộn trong nhà giam. 
Thí nghiệm tâm lý bộc lộ sự xấu xa của con người 6Một hình ảnh mô phỏng về thí nghiệm "Nhà tù Stanford".
 
Trong thí nghiệm này, 12 tình nguyện viên đóng vai cai ngục được phép sử dụng những biện pháp ngược đãi tinh thần của các “tù nhân”. Sự việc đi quá xa đến mức 2 sinh viên đã phải bỏ cuộc sớm và thí nghiệm phải dừng lại sau 6 ngày.

Kết quả thật kinh ngạc, 1/3 số cai tù xuất hiện hội chứng “buồn chán”, một người mắc bệnh thần kinh nói năng lảm nhảm và hầu hết những người trong cuộc cảm thấy bị bệnh tâm thần quá nặng. Họ có cảm giác như mình giống binh lính của Hitler.
 
5. Thí nghiệm tra tấn sốc điện
 
Stanley Milgram là một trong những nhà tâm lý học hàng đầu người Mỹ và nổi tiếng với thí nghiệm “sốc điện” của ông. 
 
Thí nghiệm tâm lý bộc lộ sự xấu xa của con người 7Người bị sốc điện trong thí nghiệm nổi tiếng của Milgram.
 
Trong cuộc thử nghiệm, các tính nguyện viên đóng vai một “giáo viên” đặt ra những câu hỏi cho “sinh viên”. Nếu sinh viên này trả lời sai, người giám sát thí nghiệm yêu cầu “giáo viên” phải phạt anh ta bằng cách nhấn các nút gây sốc điện với cường độ lớn dần, cao nhất lên đến 450 volt.

Những “giáo viên” tham gia thử nghiệm được yêu cầu không được ngừng tra tấn, mặc dù họ thấy người "sinh viên" phải chịu sự khổ sở cùng cực. 
 
Thí nghiệm tâm lý bộc lộ sự xấu xa của con người 8Đa số những tình nguyện viên đã chọn mức sốc điện cao nhất khi bị yêu cầu.
 
Thí nghiệm của Milgram đã hứng chịu không ít chỉ trích và phê phán. Thực ra, người “sinh viên” bị giật điện chỉ là một diễn viên giả vờ đau đớn mà thôi. 
 
Trước khi thực hiện thí nghiệm, người ta dự đoán sẽ dưới 3% các tình nguyện viên dám bấm nút 450 volt khi người giám sát ra lệnh. Nhưng thực tế, đã có 26 trên tổng số 40 người bấm nút tra tấn cực đại (tỉ lệ lên đến 65%). 
 
Milgram giải thích, nếu con người bị đặt vào những tình huống phải chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, họ có thể làm những điều đi ngược lại niềm tin đạo đức của chính họ dù không hề muốn. 




Thứ Năm, 21 tháng 2, 2013

Tinh thần khó nghèo Phanxicô (II)

Tinh thần nghèo khó Phanxicô (II)
Lm. Nguyễn Hữu Thy2/19/2013

 
Tinh thần khó nghèo Phanxicô (II)

3. Tinh thần nghèo khó Phanxicô trong thế giới hôm nay

Mãi đến ngày hôm nay, Dòng Thánh Phanxicô vẫn luôn là một Dòng Tu lớn và quan trọng trong Giáo Hội. Tất cả những nam nữ Tu Sĩ trên khắp thế giới tự nhận mình sống theo Tu Luật thánh Phanxicô Khó Khăn được chia ra ba ngành khác nhau:

Ngành thứ nhất là các tu sĩ Phanxicô (Franziskaner), tiếng La-tinh là Ordo Fratrum Minorum, viết tắt là OFM; người ta có thể nói ngành này là Dòng Phanxicô chính thống và nguyên thủy. Trên thực tế, vì hoàn cảnh xã hội và tâm lý con người ngày đã hoàn toàn thay đổi, nên lý tưởng sống nghèo khó tuyệt căn và sống đời hành khất như thánh Phanxicô đã sống xưa là một điều bất khả, nhưng vì tinh thần nghèo khó, các Tu Sĩ Dòng Phanxicô chọn cho mình một cuộc sống tương đương với mức độ cuộc sống đại đa số dân chúng thuộc tầng lớp bình dân nghèo đói sống chung quanh họ.

Ngành thứ hai là các tu sĩ Phanxicô Cải Cách (Kapuzianer), tiếng La-tinh là Ordo Fratrum Minorum Capuccinorum, viết tắt là OFMcap. Các Tu Sĩ thuộc hai ngành này đều mặc áo màu nâu;

Ngành thứ ba được gọi là Minoriten hay Konventualen, trong các vùng lãnh thổ nói tiếng Pháp người ta gọi các Tu Sĩ Phanxicô ngành thứ ba này là Cordeliers, viết tắt là OFMconv.(33) Các Tu Sĩ Phanxicô ngành này mặc áo màu đen và thắt dây lưng trắng.

Ngành Nữ Phanxicô hay cũng được gọi là Dòng Thánh Clara. Đây là một Dòng Tu giành cho phái nữ hoàn toàn sống theo lý tưởng nghèo khó của thánh Phanxicô, được chính thánh Phanxicô và người em họ của ngài là thánh nữ Clara(34) lập nên để tạo điều kiện cho tất cả những người phụ nữ muốn dâng mình cho Chúa sống theo lý tưởng nghèo khó Phanxicô.

Ngoài những cộng đoàn nam nữ Tu Sĩ Phanxicô chính thức, trực tiếp sống theo Tu Luật thánh Phanxicô như trên, trong Giáo Hội còn có nhiều Dòng Tu nam nữ khác cũng phần nào đó sống dựa theo tinh thần khó nghèo Phanxicô và cũng tự gọi mình là tu sĩ Dòng Ba Phanxicô. Nhưng không chỉ các nam nữ trong các Tu Viện, mà còn có hàng triệu người giáo dân sống bậc vợ chồng khắp nơi trên thế giới cũng muốn noi theo gương sống thánh thiện, nghèo khó và từ bỏ của Thánh Phanxicô.

Điều đó đã mặc nhiên khẳng định rằng, đời sống thánh thiện sâu xa và tinh thần nghèo khó tuyệt căn của thánh Phanxicô Assisi đã ảnh hưởng sâu đậm trong lòng người, đã cuốn hút các tâm hồn hướng thiện và biết quay trở về với Chúa, và qua đó đã góp phần xây dựng Giáo Hội và mang lại cho xã hội một bầu không khí sống chung hài hoà và huynh đệ hơn. Bởi vậy, nhà độc tài vô thần Stalin đã phải thú nhận: “Thế giới này chỉ cần có mười người như thánh Phanxicô Assisi, thì đã đủ để thay đổi được bộ mặt của mình.”

Sau đây, chúng ta thử tìm hiểu “Hội Dòng Ba Phanxicô” hay “Hội Anh Chị Em Phan Sinh Tại Thế Việt Nam”, tức những nam nữ giáo dân sống bậc vợ chồng giữa lòng đời, nhưng lại muốn thánh hóa cuộc sống của mình qua việc thực hành theo tinh thần ba lời khấn dòng, nhất là tinh thần khó nghèo Phanxicô.

4. Dòng Ba Phanxicô hay Anh Chị Em Phan Sinh Tại Thế Việt Nam

Ở Việt Nam đặc biệt có những giáo dân Công Giáo cũng lập gia đình, sống và sinh hoạt bình thường như tất cả mọi tín hữu khác trong các Xứ Đạo, nhưng họ lại muốn sống theo tinh thần ba lời khấn dòng nói chung và tinh thần lời khấn khó nghèo của thánh Phanxicô nói riêng. Những người giáo dân nam nữ đạo đức này được tổ chức thành Hội Dòng Ban Phanxicô hay cũng được gọi là Hội các Anh Chị Em Phan Sinh Tại Thế.

Có lẽ đối với những người chưa quen biết tổ chức và đời sống của Hội các Anh Chị Em Phan Sinh Tại Thế (35) hay Hội Dòng Ba Phanxicô, sẽ rất ngạc nhiên và thắc mắc tự hỏi: Những người sống trong bậc vợ chồng thì làm sao còn có thể sống tinh thần ba lời khấn dòng được nữa? Đó là một thắc mắc rất hợp lý. Một điều chắc chắn không ai có thể phủ nhận được, đó là những người giáo dân sống bậc vợ chồng thì tất nhiên không thể sống ba lời khấn dòng một cách chặt chẽ như các Tu Sĩ nam nữ trong các Tu Viện được. Nhưng tinh thần ba lời khấn dòng ấy thì họ chẳng những hoàn toàn có thể sống và thực hành theo, mà còn là một điều phù hợp với thánh ý Chúa được biểu lộ rõ ràng trong Mười Điều Răn của Người.

a) Tinh thần đức vâng lời: Để sống tinh thần đức vâng lời trong cuộc sống cụ thể hằng ngày, các Anh Chị Em Phan Sinh Tại Thế sẽ cùng với người bạn đời của mình, đã được Thiên Chúa liên kết qua Bí tích Hôn Nhân, họ ý thức được rằng họ – chồng cũng như vợ – không còn là hai nữa, nhưng đã trở thành một thân xác trong tình yêu thương chân thành. Vì thế, họ không còn tự ý quyết đoán hay định đoạt bất cứ điều gì trong cuộc sống riêng cũng như trong cuộc sống gia đình, nhưng họ cùng đem ra bàn bạc với nhau, cùng tham khảo ý kiến của nhau trong tình yêu thương và tôn trọng nhau chân thành, và cùng quyết định. Còn đối với con cái, họ không coi chúng như sở hữu của mình để muốn đối xử với chúng thế nào tùy ý, nhưng là ơn lành Chúa ban và là những cá nhân cũng mang trên mình hình ảnh của Chúa như họ vậy. Vì thế, họ dạy dỗ con cái với sự kính sợ Chúa, với tình yêu và sự tôn trọng nhân vị của con cái. Tuyệt đối họ không sử dụng cách giáo dục con cái bằng bạo lực, chửi bới hay nhiếc mắng hầu để trút đổ lên đầu con cái những bực tức giận dữ của mình. Nhất là họ dạy con cái không chỉ bằng lời nói suông, nhưng trước hết bằng cuộc sống gương mẫu cụ thể của mình trong mọi lãnh vực: Từ đời sống đức tin, đời sống luân lý đến đời sống xã hội, v.v.., theo gương thánh nữ Monica, người mẹ nhân hậu và thánh thiện của thánh Augustinô.

b) Tinh thần khiết tịnh: Qua Bí tích Hôn Nhân, Thiên Chúa đã không chỉ liên kết thể xác họ nên một, nhưng cả tinh thần, ý nghĩ và các ham muốn tự nhiên nữa. Tinh thần lời khấn khiết tịnh giúp họ chống lại những cám dỗ lăng loàn của thể xác, chống lại những ham muốn và đòi hỏi bất chính của thể xác. Nhờ có tinh thần khiết tịnh của lời khấn dòng, các Anh Chị Em Phan Sinh sẽ luôn luôn trung thành và yêu thương vợ/chồng của mình, chứ không còn ham muốn tìm kiếm „của lạ“ hay không còn viển vông „đứng núi này trông núi nọ“. Nói cách khác, sự ý thức và xác tín sống theo tinh thần khiết tịnh của lời khấn dòng đã giúp cho các Anh Chị Em Phan Sinh Tại Thế biết tự chủ và kiềm chế được các ý nghĩ, hành động và lời nói của mình, để không làm tổn thương đến đời sống hôn nhân của mình. Đồng thời cũng giúp họ không coi người bạn đời như đối tượng để thỏa mãn những đòi hỏi tính dục của mình, nhưng là yêu thương và tôn trọng lẫn nhau và cùng giúp nhau thêm lòng yêu mến Chúa và đồng loại hơn. Nói tắt, tinh thần lời khấn khiết tịnh giúp họ trung thành hoàn toàn với nhau trong đời sống hạnh phúc lứa đôi như Chúa muốn.

c) Tinh thần khó nghèo: Đặc biệt nhất là tinh thần lời khấn khó nghèo Phanxicô, một điểm đụng chạm trực tiếp tới cuộc sống thực tế nhiều nhất. Khi sống trong bậc giáo dân ở giữa lòng đời, các Anh Chị Em Phan Sinh Tại Thế vẫn sống và sinh hoạt trong các lãnh vực bình thường như tất cả mọi người bình thường khác, nhưng với tinh thần khó nghèo Phanxicô họ lại sống và sinh hoạt một cách không bình thường. Nói cách khác, dù phải sinh nhai kiếm sống bằng tất cả mọi nghề nghiệp thuộc mọi lãnh vực và dù phải tranh đấu vật lộn với mọi khó khăn trắc trở của cuộc sống như mọi người khác, nhưng tinh thần lời khấn khó nghèo Phanxicô là ánh sáng chiếu soi và hướng dẫn họ tranh đấu và vật lộn với cuộc sống một cách hợp lý, đầy tin tưởng và nhân hậu, đúng theo tinh thần bác ái Kitô giáo, giúp cho họ sinh nhai kiếm sống đúng với luật công bằng và nhân ái của Phúc Âm. Nói một cách cụ thể, tinh thần khó nghèo Phanxicô hướng dẫn các Anh Chị Em Phan Sinh Tại Thế biết làm ăn sinh sống một cách lương thiện: Không tham lam hay chiếm đoạt của cải thuộc người khác, không lừa đảo phỉnh gạt, không mánh khóe gian manh một cách bất công trong khi hành nghề kiếm sống; những gì họ có được phải tuyệt đối là của lương thiện. Tiếp đến, với tinh thần khó nghèo Phanxicô, các Anh Chị Em Phan Sinh không coi các của cải của gia đình họ là của riêng một cá nhân, dù chính cá nhân ấy đã trực tiếp tạo nên chúng đi nữa, nhưng là của cải chung của mọi thành viên trong gia đình: Chồng, vợ, và con cái. Và cũng chính tinh thần khó nghèo ấy giúp họ biết tự chủ, biết tự kiềm chế và hành động khiêm tốn trong cuộc sống và cũng như trong các cách cư xử, nghĩa là khi giàu có không khoe khoang, tự cao tự đại, khinh người hay ích kỷ, nhưng giàu lòng từ thiện và biết quảng đại chia sẻ với các anh chị em đồng loại đang trong cơn túng cực, theo gương thánh Phanxicô xưa, vì họ luôn xác tín được rằng mọi của cải họ có được đều là của Chúa, còn họ chỉ là người quản lý các của cải ấy mà thôi; còn khi chẳng may phải thất thế và thua thiệt hay mất mát trong quá trình làm ăn và phải sống thiếu thốn, nghèo khổ, thì luôn biết vui vẻ chấp nhận để học hỏi thêm kinh nghiệm, nhất là biết tín thác vào sự an bài đầy tình thương của Chúa và nỗ lực vượt ra khỏi cơn thử thách để tiến lên, chứ không tuyệt vọng, ngã lòng hay buông xuôi và không phàn nàn hay oán trách bất cứ ai, và tuyệt đối không đành tâm làm những chuyện xằng bậy bất chính. Vì hơn ai hết, họ luôn ý thức được lời dạy của cổ nhân: „Đói cho sạch, rách cho thơm“. Ở điểm này, chính Đức Khổng Tử cũng đã chí lý dạy: „Quân tử cố cùng“: Người hiền đức trong cảnh cùng khốn vẫn giữ mình lương thiện; chỉ có: „Tiểu nhân cùng tư lạm hỹ“: kẻ tiểu nhân thì khi gặp cơn khốn cùng là làm những chuyện xằng bậy.(36)

Để giúp nhau sống và thực hành tinh thần ba lời khấn dòng trên, nhất là tinh thần khó nghèo Phanxicô, Hội Anh Chị Em Phan Sinh Tại Thế đã có một Nội Quy khá chặt chẽ, nhưng hợp lý, phù hợp với cuộc sống giáo dân trong bậc gia đình, như:

• Các giờ chầu Thánh Thể,

• Các giờ kinh nhất định tại các gia đình với những lời kinh riêng và những bài hướng dẫn suy gẫm sâu xa.

• Các cuộc hội thảo định kỳ về các chủ đề nhất định.

• Học hỏi Kinh Thánh.

• Gặp gỡ, thăm viếng, an ủi và động viên nhau trong cuộc sống đời thường cũng như trong cuộc sống đức tin với tinh thần huynh đệ chân thành theo gương thánh Phanxicô.

Nhưng dĩ nhiên, Anh Chị Em Phan Sinh Tại Thế không chỉ dừng lại trong các sinh hoạt tinh thần mang tích cách nội bộ như trên, nhưng họ còn phụ trách những công tác tông đồ giáo dân, thực thi các việc từ thiện bác ái. Họ chia nhau đi thăm viếng các gia đình nghèo khổ, các người già cả, neo đơn hay đau ốm trong các thôn xóm, và dù chính họ cũng là những người nghèo, họ còn tìm cách giúp đỡ cả về mặt vật chất cho những người đang trong cảnh quá túng thiếu, theo khả năng kinh tế hạn hẹp của họ.

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập (1963-2013) Hội Dòng Ba Phanxicô hay Hội các Anh Chị Em Phan Sinh Tại Thế của giáo xứ Tân Bình, trước hết, tôi xin thành thật chia vui với tất cả mọi thành viên của quý Hội và cầu chúc ơn Chúa, sự thánh thiện, ý chí nên thánh qua việc thực thi tinh thần ba lời khấn dòng theo gương thánh tổ phụ Phanxicô; và tiếp đến, tôi cũng xin chúc mừng Giáo xứ Tân Bình đã vinh dự có được Hội Dòng Ba Phanxicô ngay giữa lòng Giáo xứ, một Hội Đoàn thánh thiện và năng động trong mọi sinh hoạt tông đồ của Giáo xứ. Và chớ gì tất cả chỉ vì: „Ad majorem Dei gloriam“: Để làm sáng danh Thiên Chúa hơn!

_________________________

Chú thích:

33.Các Tu Sĩ thuộc ngành Cordeliers là những Tu Sĩ Phanxicô, một đàng chủ trương rằng cộng đoàn Tu Viện được phép có của cải và bất động sản, đàng khác họ lại chủ trương là các Tu Sĩ phải giữ nghiêm ngặt đời sống khó nghèo, đúng với quan điểm của Đấng Sáng Lập. Vì thế năm 1517 các Tu Sĩ này đã tách ra sống riêng và lập nên ngành thứ ba này, và đã được Đức Thánh Cha Leo X chấp nhận.

34.Thánh Clara Assisi, tên thật là Chiara dei Scifi, được sinh ra vào khoảng năm 1193 tại Assisi cũng trong một gia đình quý tộc giàu sang, và năm 1211 Chiara đã sốt sắng xin sống theo lý tưởng từ bỏ và nghèo khó của thánh Phanxicô. Năm 1253 Clara qua đời và hai năm sau đó Đức Thánh Cha Alexandre IV phong bà lên bậc hiển thánh.

35.Tên Phan Sinh là từ được phát âm trại ra từ Phanxicô.

36.Sách Luận Ngữ: Thuật-Nhi, VII.

Tinh thần nghèo khó Phanxicô (I)

Tinh thần nghèo khó Phanxicô (I)
Lm. Nguyễn Hữu Thy2/19/2013(VietCatholic)

Tinh thần nghèo khó Phanxicô (I)

BBT: Nhân dịp đại lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Hội Dòng Ba Phanxicô hay cũng được gọi là Hội Anh Chị Em Phan Sinh Tại Thế (1963-2013), của giáo xứ Tân Bình, giáo hạt Cam Ranh, giáo phận Nha Trang, cha Gioan Bosco Nguyễn Hữu Thy đã biên soạn một bài sưu khảo về Tinh Thần Khó Nghèo Phanxicô, một đặc điểm trổi vượt của ơn gọi Dòng các Anh Em Hèn Mọn Thánh Phanxicô, để đề tặng các Anh Chị Em Phan Sinh Tại Thế. Vì lợi ích đời sống tâm linh của các độc giả, chúng tôi xin được phép giới thiệu đến quý vị toàn bài viết qua hai kỳ.



Trong tất cả mọi Dòng Tu Công Giáo, các Tu Sĩ hay các thành viên khi chính thức gia nhập đời sống cộng đoàn Tu Viện đều phải tuyên khấn giữ ba điều cơ bản của đời sống tu trì. Đó là:

1. Tinh thần tuân phục,

2. Giữ mình độc thân khiết tịnh,

3. Sống đời khó nghèo.

Người ta gọi ba lời khấn ấy là ba nhân đức hay ba điều kiện nền tảng của đời sống tận hiến trong một cộng đoàn Tu Viện, vì chính ba điều kiện ấy giúp cho mỗi Tu Sĩ một cách hiệu quả trong suốt quá trình thánh hóa và hoàn thiện chính bản thân mình trong cuộc sống hằng ngày. Qua đó, người Tu Sĩ tìm gặp được ý nghĩa và niềm hoan lạc tinh thần đích thực cho cuộc sống của mình, và đồng thời góp phần vào sự tồn tại bền vững và sự phát huy đời sống tận hiến thánh thiện của cộng đoàn Tu viện.

Tuy nhiên, thánh Phanxicô thành Assisi, hay cũng được gọi là thánh Phanxicô Năm Dấu(1), lại nhấn mạnh một cách hết sức đặc biệt đến tinh thần khó nghèo trong cuộc sống, dựa theo gương sống khó nghèo của Chúa Giêsu ở Na-da-rét, Đấng đã được sinh ra trong sự khốn cùng và khi lớn lên còn phải sống một cuộc đời nghèo khổ hơn nữa. Sau cùng chết trần truồng trên thập tự giá, đến nỗi không một mảnh vải che thân và cũng không có một nấm mồ riêng, nhưng phải gửi thân nơi nấm mồ của một kẻ khác.

Nhưng trước khi đi sâu vào tinh thần nghèo khó của thánh Phanxicô và của các Tu Sĩ của ngài, chúng ta thử tìm hiểu qua ý niệm „nghèo khó“ cách khái quát trong đại chúng và trong Kinh Thánh.



I. Ý niệm nghèo theo nghĩa tổng quát và theo Kinh Thánh

1. Định nghĩa ý niệm „nghèo đói“

Theo quan niệm ngày nay khi nói đến sự nghèo đói, người ta nghĩ ngay tới:

1. Trên bình diện nhà nước: Những quốc gia thuộc thế giới đệ tam, tức những quốc gia chậm tiến hay đang trên đường phát triển, những nơi mà nền kinh tế chưa được kỹ nghệ hóa với các máy móc tân tiến, những nơi mà đại đa số dân chúng đang sống bằng nghề canh nông với các phương tiện thô sơ, lạc hậu. Mức thu nhập của người dân còn quá thấp, chưa đủ bảo đảm cuộc sống hằng ngày của mình.

2. Trên bình diện cá nhân: Những người phải chịu cảnh đói khát, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, hay những người phải lê gót đi ăn xin trên các góc đường xó chợ, sống nhờ vào lòng hảo tâm, vào sự bố thí của đồng loại, v.v…

Nói chung, ý niệm nghèo đói trên đây trình bày trước mắt chúng ta một hoàn cảnh sống bất hạnh của những người, không những làm không đủ ăn và phải chịu thiếu thốn trăm bề, nhưng còn là một hoàn cảnh sống hoàn toàn vô sản. Đó chính là những người sống trong cảnh khốn cùng, thiếu điều kiện sống tối thiểu là cơm ăn áo mặc, mất hết mọi hy vọng tự lực cánh sinh trong việc sống còn.

Nhưng nếu sự nghèo đói được định nghĩa hay được quan niệm như vừa nói trên đây, thì người ta có thể nói được rằng, một định nghĩa như thế là chưa trọn vẹn và hoàn hảo, vì còn quá bị giới hạn trong lãnh vực kinh tế. Và như thế, quan niệm ấy tất nhiên đã bỏ sót một cái nhìn rộng rãi và đầy đủ hơn về ý niệm nghèo đói khi nó được nhìn dưới góc độ khác.

Thật vậy, trong cộng đồng nhân loại, còn có một tiểu số người đã không tránh né sự nghèo khó hay bất lực không tự kiếm được đủ cơm ăn áo mặc cho bản thân, nhưng còn tự nguyện chọn sống đời nghèo khó như „lý tưởng sống“ của mình. Dĩ nhiên, trong khi hầu như mọi dân tộc trên thế giới đang nỗ lực phấn đấu để xóa bỏ hay ngăn chặn nạn nghèo đói như một thứ giặc nguy hiểm, mà ở đây chúng ta lại gọi sự nghèo đói là „lý tưởng sống“ thì thoạt nghe là quá xa lạ và không thực tế. Tuy nhiên, nếu được nhìn dưới góc độ tâm linh và tôn giáo, hay nói cách khác, nếu đứng về phương diện thăng tiến tinh thần nội tâm, sống siêu thoát và sống kết hiệp một cách thần bí với Thiên Chúa hay với những thực tại siêu nhiên một cách dễ dàng hơn, thì cuộc sống thoát ly khỏi mọi ràng buộc và lệ thuộc vào vật chất, tức cuộc sống nghèo khó, lại trở nên như một hình thức sống đáng theo đuổi. Và hiệu quả tất yếu phát sinh từ tinh thần từ bỏ và nghèo khó chân chính và tự nguyện ấy, người ta sẽ đương nhiên chọn cho mình lối sống độc thân khiết tịnh và vâng phục. Đây chính là những nền tảng cơ bản của đời sống các Giáo Sĩ Công Giáo nói chung và các Tu sĩ thuộc các Dòng Tu và Tu Hội nói riêng.

Quan niệm về sự nghèo khó và chọn lựa nó làm hình thức sống cụ thể như thế của các Giáo Sĩ và Tu Sĩ Công Giáo là đặt nền tảng trên chính cuộc sống cơ cực túng thiếu đến vô sản của Chúa Giêsu ở Na-da-rét xưa, với mục đích là tự nguyện hy sinh mọi nhu cầu vật chất chính đáng, hay nói cách khác, tự giải thoát mình ra khỏi mọi ràng buộc và lệ thuộc của cải vật chất, để sống kết hiệp trọn vẹn tâm trí và linh hồn mình với Thiên Chúa và đồng thời để phục vụ anh em đồng loại của mình một cách trọn vẹn và hữu hiệu hơn. Chính quan niệm sống nghèo khó tuyệt căn theo gương Chúa Giêsu ở Na-da-rét xưa như thế đã được thánh Phanxicô Assisi chọn làm mục tiêu sống, hay nói đúng hơn, là lý tưởng theo đuổi của ngài cũng như của các Tu Sĩ của ngài. Vì thế, trong suốt cả cuộc đời, thánh nhân luôn đề cao và sống đời nghèo khó từ bỏ, nếu không nói là ngài đã yêu mến và tôn kính sự nghèo đói, đến nỗi đã xưng tụng sự nghèo khó là „Bà Chúa Nghèo“. Với tư cách là Đấng sáng lập Dòng Anh Em Hèn Mọn, tiếng La-tinh là Ordo Fratrum Minorum, viết tắt là OFM, mà người ta thường gọi là Dòng Thánh Phanxicô, một trong những Dòng Tu lớn trong Giáo Hội và luôn phát triển mạnh mẽ cả trong thời đại hôm nay nữa, thánh Phanxicô Assisi là mẫu gương sống động về lòng khiêm tốn, tự hạ, hoàn toàn đúng theo tinh thần nghèo khó Kitô giáo.

Bởi vậy, trong những dòng tiếp theo sau đây chúng ta thử nhìn tổng quát về quan niệm „nghèo khó“ thời Giáo Hội tiên khởi và nhất là trong cuộc sống cụ thể của Chúa Giêsu ở Na-da-rét, gương mẫu tối cao duy nhất của thánh Phanxicô.

2. Quan niệm nghèo khó trong truyền thống Kinh Thánh

Trên thực tế, đề tài về sự nghèo khó ngay từ khởi đầu là một đề tài trọng tâm của Kitô Giáo nói chung và đặc biệt là trong lịch sử các phong trào Tu Trì trong Giáo Hội nói riêng. Vì thế, người ta đã tìm thấy những danh xưng „Giáo Hội của những người nghèo“ hay „Những người nghèo của Thiên Chúa“, v.v… đã có những chỗ đứng trang trọng trong tâm thức các tín hữu ngay từ thời Giáo Hội tiên khởi, như là những hình thức sống noi theo gương nghèo khó của Chúa Giêsu.

Trong lãnh vực này, Kinh Thánh quả thực là nguồn tài liệu khả tín nhất giúp chúng ta có được một cái nhìn chính xác, xét về phương diện lịch sử cũng như phương diện thần học, về các quan điểm „nghèo khó“ thời tiền Kitô giáo và thời khởi đầu Kitô giáo, tức thời Giáo Hội tiên khởi. Bởi thế, trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu vấn đề dựa theo sự khả tín và sự xác thực của Kinh Thánh.

2.1. Cái nhìn tổng quát trong Kinh Thánh

Tương tự như trong bản Kinh Thánh Bảy Mươi và trong bản Kinh Thánh theo tiếng Hy Lạp, chúng ta cũng tìm thấy trong bản Kinh Thánh tiếng La-tinh, tức bản Kinh Thánh Vulgata, bản Kinh Thánh phổ thông,(2) ba ý niệm khác nhau về sự đói nghèo.

1) Trước hết là ý niệm „egenus“. Từ „egenus“ trong bản Kinh Thánh La-tinh được sử dụng để nói về những người đang phải sống trong cảnh đói nghèo, bởi vì họ làm không đủ ăn.(3)

2) Tiếp đến là ý niệm „inops“. Từ „inops“ được sử dụng để nói về những người bất lực trong việc làm giàu và đành phải chịu cuộc sống thiếu thốn. Như thế, theo nghĩa nguyên thủy của từ „inops“ là tình trạng những người thiếu phương tiện sống.(4)

3) Và sau cùng là ý niệm „mendicans“. Từ “mendicans” chỉ những người do một lý do cản trở nào đó đã không thể tự làm việc sinh nhai kiếm sống được, không thể mang lại lợi nhuận kinh tế được, và vì thế phải chấp nhận kiếp sống “ăn xin”, phải nhờ vả vào sự bố thí của đồng loại để sống còn.(5)

Trên đây là ba ý niệm chính về sự đói nghèo được đề cập đến trong Kinh Thánh.

Nói một cách tổng quát, mặc dù sự giàu có và sự đói nghèo hoàn toàn tương phản nhau, Kinh Thánh đã minh giải rằng sự giàu có và sự đói nghèo được coi như là những hiện tượng đã được Thiên Chúa phê chuẩn, mà người có lòng kính sợ Chúa phải chấp nhận. Điều đó muốn nói rằng, chẳng hạn một mùa gặt bội thu là một ơn lành do Chúa ban.(Lv 25,21; Đnl. 28,8).

Trong truyền thống Kinh Thánh còn hàm chứa một khía cạnh quan trọng khác mà chúng ta cũng không được phép bỏ qua, đó là lời hứa nâng đỡ và bảo trợ của Thiên Chúa dành cho những người đói nghèo.

Thật vậy, trong phần Cựu Ước bằng tiếng La-tinh, chúng ta tìm gặp những câu như sau:

Parcet pauperi et inops et animas pauperum salvas faciet”: Thiên Chúa chạnh lòng thương xót những người nghèo hèn và đói khổ, và mạng sống những người khốn cùng Người ra tay cứu độ.(Tv. 72,13)

Và tiếp đến:

“… Ex oppressione et violentia redimet animas eorum, et pretiosus erit sanguis eorum coram illo”: Người giải thoát mạng sống họ khỏi sự áp bức và bạo tàn, và từng giọt máu của họ đều quý báu trước mắt Người.”(Tv. 72,13)

Trong những câu trên, Thiên Chúa được coi là Đấng che chở và cứu vớt những người bần cùng nghèo đói, Người che chở họ trước bạo lực và áp bức của kẻ khác.

Như vậy, theo Kinh Thánh, Thiên Chúa là niềm hy vọng độc nhất của những người nghèo. Trong Kinh Thánh, ý niệm đói nghèo thường được đồng nghĩa với sự yếu đuối, non dại, bé nhỏ và bất lực.

Đây là những điều mà một chỗ quan trọng khác trong Cựu Ước đã đặc biệt trình bày rõ ràng nhất:

“…qui respondens ait obsecro Domine mi in quo liberabo Israel ecce familia mia infima est in Manasse et ego minimus in domo patris mei”: Lạy Chúa, làm sao con có thể giải cứu Ít-ra-en được. Này gia đình con thấp kém nhất trong dòng tộc Ma-nát-xê và con lại là người nhỏ bé nhất trong nhà cha con.(Tl. 6,15)

Trên đây là lời cầu nguyện của chàng trai Ghít-ôn, người Do-thái, cùng Thiên Chúa, khi anh biết Người muốn anh cùng góp sức giải thoát dân Do-thái ra khỏi sự đô hộ tàn bạo của dân Ma-đi-an. Anh đã tự nhận mình và gia đình mình là nhỏ bé, tầm thường và yếu đuối. Qua đó, chúng ta thấy được rằng, Kinh Thánh đã trình bày chàng thanh niên Ghít-ôn, một người còn non trẻ, yếu đuối và nghèo hèn, như là một người được Thiên Chúa kén chọn để gánh vác trách nhiệm to lớn mà Người muốn trao phó cho anh.

Như thế, chúng ta nhận chân được một cách rõ ràng rằng, trong kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa, những người nghèo hèn bé mọn không hề bị Thiên Chúa bỏ rơi, nhưng luôn cảm nhận được sự che chở bảo trợ của Người và được Người tin tưởng giao phó cho các trọng trách khác nhau (x. Tv.72,12-14). Trong khi đó, qua tiên tri I-sai-a, chúng ta thấy những kẻ giàu sang ích kỷ và bất công thì bị Thiên Chúa ruồng bỏ. (x. Is. 5,8).

Ở đây tiên tri I-sai-a cũng cho biết Thiên Chúa muốn con người phải cư xử với nhau sao cho phải đạo, như Người hằng mong muốn, tức:

“… frage esurienti panem tuum et egenos vagosque induc in donum tuam cum videris nudum opera eum et carnem tuam ne despexeris”: chia cơm cho người đói khát, đón rước vào nhà những người vô gia cư, cho người trần truồng áo mặc, và không ngoảnh mặt làm ngơ trước người bà con cốt nhục. (Is. 58,7).

Ở đây, chúng ta cũng không quên rằng, một điều không thể chối cãi được là ngay vào thời trước Kitô giáo xuất hiện, sự đói nghèo dù do hoàn cảnh sống tạo nên hay dù do chính lỗi lầm của các đương sự gây ra, Thiên Chúa luôn dủ lòng thương xót những người bần cùng đói khổ, Người ra tay che chở họ. Đây cũng là điều được minh chứng rõ ràng trong toàn bộ Kinh Thánh. Nhất là theo Kinh Thánh, chỉ những người nghèo đói và luôn biết xác tín được rằng mình thực sự đói nghèo, thì vào ngày sau hết họ sẽ được thừa hưởng hạnh phúc viên mãn. (x. Mt 5,3; Lc 16,19-31)

2.2. Quan niệm đói nghèo trong Tân Ước

Vào thời Chúa Giêsu, nước Do-thái là thuộc địa của đế quốc Roma. Chính quyền bảo hộ không chỉ kiểm soát mọi sinh hoạt văn hóa và xã hội, nhưng cả đến các sinh hoạt kinh tế nữa. Trong khi đó trách nhiệm đối với một xã hội gồm các giai cấp và thứ bậc được phân biệt rõ ràng lúc bấy giờ lại không nằm trong tay chính quyền bảo hộ Roma, nhưng xã hội giai cấp ấy là một hệ thống xã hội bền vững hoàn toàn của dân Do-thái.

Những giai cấp xã hội của người Do-thái được chia ra như sau: Một bên gồm Hội đồng các vị Trưởng Lão, các thầy thông giáo hay luật sĩ và hàng giáo sĩ quý tộc, còn bên kia gồm những người nghèo đói, những người sống ngoài lề xã hội và tầng lớp đại đa số dân chúng bị bóc lột. Điều đó cho thấy là cuộc sống hằng ngày của dân Do-thái bị chi phối khá rõ rệt bởi sự giàu có và quyền lực. Nhất là hàng giáo sĩ quý tộc, những người phụ trách vấn đề thờ phượng trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, đã gây ra cho cuộc sống của tầng lớp dân nghèo nhiều phiền hà và rắc rối qua việc tăng liên tục thuế nộp cho Đền Thờ, một loại thuế mà tất cả mọi công dân Do-thái phải chu toàn bằng mọi giá. (Lc 18,12; Mt 23,23).

Còn các vị Thượng Tế phụ trách việc coi sóc và thờ phượng trong Đền Thờ, thường thuộc phái Sadduzäer,(6) được hưởng các lễ vật và tiền bạc của những tầng lớp giàu có dâng cúng cho Đền thờ (x. Vulgata: Mc 12,41-44) và nhờ sự cộng tác sát cánh với chính quyền bảo hộ Roma họ còn là một giai cấp được ưu đãi và được hưởng nhiều bổng lộc khác nhau.

Thuộc về giai cấp khá giả trong dân, trước hết phải kể đến các luật sĩ, thường thuộc về phái Pharisäer. Những người Pharisäer tự tách biệt mình ra khỏi những người khác trong dân, không chỉ dựa theo nguyên ngữ của tên xưng,(7) nhưng vì họ thuộc một tầng lớp giàu có và được hưởng nhiều ưu đãi, nhất là họ hoàn toàn tự phân biệt mình với đại đa số người nghèo đói trong dân. Qua đức tin mạnh mẽ, nhưng lại lệch lạc của họ vào Luật Môsê, khiến họ suy diễn sai lầm trầm trọng về Luật ấy, và vì thế họ đã cho rằng họ không được đụng chạm tới các người nghèo hèn và đói khổ. Thêm vào đó sự huấn luyện thiếu căn bản và cách sống của họ đã làm cho họ hoàn toàn xa cách với tầng lớp nghèo khổ, mà họ vẫn coi là những kẻ tội lỗi và ngoại đạo. (x. Lc 18,9; Ga 7,49)

Giữa một xã hội đầy bất công và ngang trái như thế, Chúa Giêsu đã được sinh ra trong một gia đình thuộc tầng lớp nghèo khổ nhất tại miền Galiläa. Vì thế, Người đã được coi là một người tiêu biểu của tầng lớp vô sản đói nghèo lúc bấy giờ. Còn chính Người tự nhận mình là “Người mục tử nhân lành” của một đàn chiên bị bỏ rơi, bơ vơ không người chăn dắt hướng dẫn. Người đã trở thành niềm hy vọng cho những người nghèo hèn đói khổ và không có tiếng nói trong xã hội. (x. Ga 10,11-22)

Điều đó muốn khẳng định rằng, sứ mệnh của Chúa Giêsu khi giáng thế trong thân phận một người bần cùng đói nghèo là để nâng đỡ, an ủi và cứu giúp những người nghèo, những người yếu đuối, những người tàn tật bệnh hoạn và các kẻ bị tù tội, v.v... Sứ mệnh này của Chúa Cứu thế đã được tiên tri I-sai-a loan báo từ ngàn xưa trong Cựu Ước và thánh sử Luca đã nhắc lại như sau:

Spiritus Domini super me propter quod unxit me evangelizare pauperibus misit me…”: Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…”

Nói chung, phần Tân Ước đã nhấn mạnh và làm nổi bật quan điểm chủ yếu của Chúa Giêsu là Người hoàn toàn đứng về phía những người nghèo, những người yếu thế cô thân và những người bị đàn áp bóc lột. Người sống liên đới với họ và luôn ra tay bênh vực họ, vì chính Người cũng là một người nghèo như họ. (x. Mc 10)

Nền tảng quan trọng nhất của ý niệm nghèo đói nơi Chúa Giêsu đã được phần Tân Ước trình bày một cách rõ ràng đặc biệt qua Bài Giảng Trên Núi, hay cũng được gọi là Tám Mối Phúc Thật. Theo tương truyền của Kinh Thánh, Tám Mối Phúc Thật là bản tóm tắt những giáo huấn mà Thiên Chúa đã dự định mặc khải cho Dân Người, và nay Chúa Giêsu đã đưa công bố trên một ngọn núi. (x. Mt 5)

Cái chết đau thương trên thập giá của Chúa Giêsu vì tội lỗi nhân loại là cả một minh chứng hùng hồn Người thực sự là sứ giả của những người nghèo hèn đói khổ, Người hứa giành hạnh phúc Nước Trời cho họ. Bởi vậy, Chúa Giêsu, một Thiên Chúa mặc xác phàm, đã trở thành người bảo trợ thế giá nhất của người nghèo, dù Người phải hy sinh đánh đổi sứ mệnh ấy bằng chính mạng sống mình. (x. Pl 2,6-8).

Vì thế, sự dấn thân tuyệt căn đầy gương mẫu này của Chúa Giêsu, Thiên Chúa Làm Người, đã chi phối và thấm sâu vào đời sống đức tin và các sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày của tất cả các Kitô hữu, từ khởi đầu Giáo Hội cho tới ngày nay. Và một trong hằng triệu các tín hữu đã hiểu và tìm cách sống theo gương nghèo khó của Chúa Giêsu, chính là thánh Phanxicô thành Assisi. Nhưng thánh nhân là một trường hợp hoàn toàn hy hữu trong quá trình sống theo gương nghèo khó của Chúa, đó là thánh nhân đã lấy cách sống nghèo của Chúa Giêsu ở Na-da-rét xưa làm chính cuộc sống hằng ngày của mình. Nói cách khác, ngài đã sống một cuộc sống nghèo đúng nghĩa, nghèo tuyệt căn, tương tự như cuộc sống nghèo của Chúa ở Na-da-rét xưa, tức hoàn toàn vô sản, không chiếm giữ bất cứ điều gì làm của riêng, hằng ngày sống nhờ vào các của bố thí của bá tánh. Đây chính là điều chúng ta sẽ tìm hiểu trong những dòng sau đây.

II. Quan niệm nghèo khó theo thánh Phanxicô

Thánh Phanxicô đã từng khẳng định:

Đức nghèo khó làm cho tất cả tính tham lam của cải, tính hà tiện nhỏ nhoi và những lo lắng thế sự đời này phải bẽ mặt xấu hổ.” (8)

Những lời phát biểu này của thánh Phanxicô Assisi, vị sáng lập Dòng Anh Em Hèn Mọn, trước hết đã cho thấy rằng „Bà Chúa Nghèo“ đối với ngài quan trọng như thế nào. Thánh nhân nhận chân được rằng đức khó nghèo Kitô giáo, mà ngài đang ôm ấp theo đuổi, không thể đội trời chung với tính tham lam của cải đời này, tính hà tiện keo kiệt và những lo toan thái quá về cuộc sống trần thế chóng qua đời này.

Trong kinh „Lobpreis der Tugenden“ (Chúc tụng các nhân đức) do ngài biên soạn, thánh Phanxicô đã nhìn nhận tinh thần khó nghèo là một trong các nhân đức quan trọng nhất. Thật vậy, đối với thánh Phanxicô, ngoài tinh thần khó nghèo mà thánh nhân rất đề cao, còn có sự khôn ngoan, tính đơn sơ, tình yêu thương và tinh thần hòa nhã. Đó là những nhân đức mà thánh Phanxicô cũng rất nhấn mạnh. Sau cùng, một nhân đức khác cũng rất quan trọng đối với thánh nhân, đó là lòng khiêm nhu nhẫn nhục, vì ngài cho rằng lòng khiêm nhu là khí giới sắc bén giúp ta chiến thắng tính cao ngạo. Ngài viết:

Thái độ sống khiêm hạ nhu mì sẽ làm cho tính kiêu căng tự cao tự đại và tính ngạo mạn của thế gian phải bẽ bàng xấu hổ“.(9)

Trong một chỗ khác thánh nhân đã gọi đức khó nghèo là „Bà chúa nghèo“:

„Hỡi Bà Chúa Nghèo thánh thiện, Thiên Chúa gìn giữ Bà qua người chị Khiêm Nhu thánh thiện của Bà“(10)

Qua đó chúng ta thấy rằng, theo quan điểm thánh Phanxicô, đức khiêm nhu là điều kiện quan trọng giúp cho ta sống trọn vẹn cuộc sống nghèo khó Phúc Âm. Thật vậy, nếu không biết khiêm tốn và nhẫn nhục chấp nhận định mệnh, người ta khó lòng nhìn thấy và chấp nhận được đức khó nghèo là một lý tưởng sống cao cả.

Đàng khác, sự khám phá ra được rằng, tinh thần khó nghèo là một nhân đức, đó quả là trọng tâm của cuộc sống và các hoạt động của thánh Phanxicô.

Ngay sau cuộc thế chiến thứ hai, Lm. Dietmar Westemeyer OFM, một Tu Sĩ Dòng Phanxicô, đã viết một cuốn sách về thánh Phanxicô Assisi, trong đó ông viết:

Ngài (thánh Phanxicô) đã sống tinh thần khó nghèo trong một mức độ tuyệt căn đến nỗi, ví dụ nếu trường hợp toàn bộ gia sản bị bom đạn và lửa thiêu rụi, thì xem ra ngay cả một hoàn cảnh như thế cũng không hề làm cho thánh Phanxicô chút bận tâm.“

Tiếp đến, ở một chỗ khác Lm. Westemeyer còn viết:

Dù không phải trong hoàn cảnh bất khả kháng, thánh Phanxicô vẫn thường nằm nghỉ ở các cổng thành hay ở ngoài các cánh đồng. Mặc dù ngài có thể sống trong các ngôi nhà xây bằng đá, thánh nhân lại chỉ ở trong các cái chòi bằng gỗ hay bằng đất sét. Ở Rivotorto, mà người ta gọi là Na-da-rét của Dòng, trong nhiều tuần lễ thánh nhân đã ngủ trong một cái phòng kho … Trong khi những người khác chạy trốn trước sự nghèo đói, thánh Phanxicô lại đi tìm kiếm nó, và ngài đã đi tìm kiếm sự nghèo đói theo một mức độ, mà hễ khi ngài nhận thấy mình còn có bất cứ cái gì đó như là của riêng, hay một người nào đó biếu riêng ngài một thứ gì đó, thì thánh nhân đâm ra áy náy và bất an trong lòng. Thánh Bonaventura viết: Không một ai thèm khát đi tìm kiếm vàng bạc bằng thánh Phanxicô thèm khát đi tìm kiếm sự khó nghèo.“(11)

Những đoạn văn trên đây cho thấy rằng, rất có thể Lm. Westemeyer bị ảnh hưởng bởi những cảm xúc trước các khó khăn khắc nghiệt thời hậu chiến, nhưng ông quả thực là một người hết lòng kính yêu thánh Phanxicô và con đường sống nghèo khó tuyệt căn của ngài. Tuy nhiên, tác giả Westemeyer lại không nêu lên được những lý do của sự mê say tìm kiếm cuộc sống khó nghèo nơi thánh Phanxicô.

Vì thế, trong những dòng sau đây, chúng ta thử tìm hiểu con đường nào đã đưa dẫn thánh Phanxicô đến chỗ say mê tinh thần khó nghèo như thế.

1. Ơn trở lại của thánh Phanxicô và con đường dẫn tới „Bà Chúa Nghèo“

Theo bản năng và tâm lý tự nhiên, thì không một ai lại thích chọn cho mình một cuộc sống thiếu thốn và nghèo nàn cả. Chỉ trừ khi có một động lực mạnh mẽ nào đó thúc đẩy từ trong nội tâm mà thôi. Đó chính là trường hợp thánh Phanxicô Assisi: Giữa lúc đang sống trong sung sướng đầy đủ, thánh nhân đã bỗng chốc tự nguyện từ bỏ tất cả mọi vui chơi và sự thụ hưởng các của cải vật chất đời này để sống một cuộc đời bần cùng đói khổ tuyệt căn, lý do là một biến đổi nội tâm đã đánh động và gây ấn tượng quá mạnh mẽ và sâu đậm trong tâm hồn ngài, đến nỗi khiến ngài muốn dứt bỏ mọi sự.

Được sinh ra vào khoảng năm 1181/82 với tên đời là Giovanni di Pietro di Bernardone trong một gia đình thương gia giàu có. Cũng vì nhờ nghề buôn bán khăn choàng và các thứ vải vóc với người Pháp phát triển mạnh mẽ và mang lại cho gia đình cuộc sống vật chất sung túc giàu có, ông Pietro di Bernardone, cha của thánh Phanxicô, rất yêu mến và biết ơn người Pháp, vì thế ông đã gọi cậu con trai Giovanni của mình là Phanxicô, tức người Pháp.(12) Vì thế, suốt các năm tháng của tuổi trẻ cũng như tuổi thanh niên, thánh Phanxicô đã sống một cuộc sống hoàn toàn vô tư đầy đủ.(13)

Như đã nói trên, đứng về phương diện thuần tuý khách quan, khi một người thanh niên đang sống trong một cuộc sống sung túc đầy đủ như thế mà tự nguyện từ bỏ để sống một cuộc đời hành khất nghèo đói, cả là một điều không bình thường chút nào và không thể hiểu được. Thế thì tại sao hiện tượng thay đổi bất bình thường ấy lại đã xảy ra nơi Phanxicô?

Khi nghiên cứu tiểu sử của thánh Phanxicô người ta tìm thấy ba sự cố rất đáng ghi nhận, đã gây nên ảnh hưởng rất mạnh mẽ, đến nỗi đã biến đổi và đã dẫn đưa cuộc đời chàng thanh niên Giovanni của gia đình Di Bernardone vào một khúc quanh vô cùng quan trọng. Đó là:

Sự cố thứ nhất: Vào năm 1202, đã xảy ra một cuộc chiến tranh giành quyền bính giữa hai tiểu vùng Assisi và Perugia. Nhưng đáng tiếc là Assisi đã thua trận và tất cả các lính kỵ mã và các thanh niên những gia đình quý tộc và giàu có đều bị bắt làm tù binh trong suốt một năm trời, trong đó có Phanxicô. Có lẽ không bị tra tấn hay bị đánh đập, nhưng cuộc sống thiếu thốn về đủ mọi phương diện trong tù đối với một người thanh niên, mà mãi cho tới lúc bấy giờ chỉ biết ăn chơi và hưởng thụ, là cả một thách đố vô cùng nghiệt ngã. Chính đây là điều ghi sâu vào tâm hồn Phanxicô, khiến cho cậu hồi tâm và biết bình thản đánh giá đúng đắn về của cải vật chất đời này cũng như chính cuộc sống con người, và nhất là đã giúp cậu hiểu rõ được nỗi cơ cực đau khổ của những người nghèo đói: hằng ngày cơm không đủ ăn áo không đủ mặc, trong đó có Chúa Giêsu xưa ở Na-da-rét. Chính nhờ thế, để noi gương Chúa Giêsu nghèo khó, Phanxicô đã nảy sinh ý tưởng chọn cuộc sống nghèo khó như là một lý tưởng sống của mình.

Sự cố thứ hai: Theo tương truyền, thì sau một năm bị bắt làm tù binh chiến tranh với đủ mọi thiếu thốn và nhất là bị đói rét triền miên, Phanxicô đã trở nên ốm yếu và hay bị bệnh. Từ một thanh niên vốn hoàn toàn khỏe mạnh, không bệnh tật và đầy kiêu hãnh, Phanxicô đã trở nên một người hoàn toàn khác, hay đau ốm và cư xử rất khiêm nhu.(14)

Vốn được hấp thụ một nền học vấn có nền tảng về văn chương, vào năm 1204, Phanxicô đã cùng với một người bạn, con một nhà quý tộc cùng quê Assisi, rời bỏ Assisi để đến cư trú tại Apulien với mục đích là sống cuộc đời Hiệp sĩ. Theo tương truyền thì nếu chính những giấc mơ và những thị kiến khác nhau thức tỉnh lòng hăng hái của Phanxicô theo đuổi cuộc sống Hiệp sĩ, thì cũng chính những giấc mơ và những thị kiến lại đã thúc đẩy chàng dẹp bỏ nghề binh nghiệp của một hiệp sĩ. Tiểu sử của thánh Phanxicô đã trình bày cho thấy một thị kiến đặc biệt đã thôi thúc Phanxicô quay trở lại quê Assisi và chọn sứ mệnh sống „đời hiệp sĩ thiêng liêng“.

Tuy nhiên, một thị kiến khác được gọi là thị kiến „San Damiano“ đã làm đảo lộn hoàn toàn cuộc sống Phanxicô. Số là một ngày kia, khi Phanxicô đang sốt sắng cầu nguyện trong nhà thờ San Damiano, một ngôi nhà thờ đổ nát và bị bỏ hoang, thì thánh nhân bỗng nghe có tiếng Chúa từ Thánh Giá nói với ngài và truyền cho ngài hãy tu sửa lại Đền Thánh của Người.

Thoạt nghe vậy, trước hết thánh nhân cho rằng Chúa muốn ngài xây dựng lại nhà thờ San Damiano và vì thế ngài đã một mình hằng ngày vất vả gánh đá khiêng gạch xây lại ngôi Nhà Chúa này. Nhưng rồi về sau đó, thánh nhân mới khám phá ý nghĩa đích thực của sứ mệnh „xây lại Đền Thánh“ của Chúa, tức là ngài phải góp sức chỉnh đốn lại cuộc sống trong xã hội Kitô giáo đang sa đoạ thời bấy giờ.(15)

Chính những „thị kiến hoán cải“ là những nguyên nhân và động lực chính đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời Phanxicô.

Sự cố thứ ba: Ở đây chúng ta cũng cần nhắc lại một sự cố khác cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định thay đổi hoàn toàn cuộc sống của Phanxicô. Đó là cuộc chia tay đầy kịch tính với cha ruột ngài. Nhưng chính cuộc chia tay này lại là sự cố cuối cùng khiến cho Phanxicô hoàn toàn chỉ tìm kiếm và phụng sự duy nhất một mình Thiên Chúa mà thôi. Nguyên nhân sự cố được bắt nguồn từ việc trùng tu lại nhà thờ San Damiano. Trước hết, ông Pietro Di Bernardone đã cho con trai vay tiền để mua sắm vật tư trong việc trùng tu, nhưng trong quá trình xây cất cả hai cha con bất đồng ý kiến. Vì thế, ông Bernardone đã công khai đòi buộc Phanxicô phải hoàn trả lại số tiền đã vay mượn và tất cả những gì ông đã cho Phanxicô. Và sự bất đồng ấy đã xảy ra ngay tại công trường Tòa Giám Mục Assisi, trước sự chứng kiến của dân chúng. Và Phanxicô đã không chỉ hoàn trả lại cho cha mình toàn bộ số nợ mà còn toàn bộ áo quần chàng đang mặc trên người. Trong khi trần truồng không một mảnh vải che thân và ĐGM đã phải lấy áo choàng của ngài che đỡ cho chàng, Phanxicô đã tuyên bố từ nay chàng chỉ còn có một mình Thiên Chúa là người cha duy nhất mà thôi.(16) Phanxicô đã coi sự cố này như một sự chấm dứt cuộc sống trong tội lỗi và bắt đầu một cuộc sống mới dưới sự dìu dắt hướng dẫn của Thiên Chúa.

Theo Linh mục Thomas di Celano OFM,(17) thì kể từ giờ phút đó Phanxicô đã rũ bỏ hết mọi sự thế gian đời này và „… chỉ chú tâm suy niệm sự công bằng của Chúa mà thôi“.(18)

Nhất là trong các sử liệu người ta không hề tìm thấy bất cứ bằng chứng nào nói rằng khi từ bỏ thế gian, từ bỏ những ràng buộc với của cải vật chất để chỉ phụng sự một mình Chúa như thế, Phanxicô đã xin gia nhập hàng Giáo Sĩ hay một Tu Viện nào đó của các Dòng Tu đã có sẵn lúc bấy giờ. Một điều khá chắc chắn là Phanxicô đã không muốn thực thi sứ mệnh Chúa đã giao phó cho mình bằng cách gia nhập một trong các Dòng Tu với những qui luật rõ ràng đã có sẵn, nhưng là thiết lập một lối sống tu mới và riêng biệt.(19)

Qua những điều vừa trình bày, chúng ta đã nhìn thấy được nguyên nhân cắt nghĩa hiện tượng biến đổi đặc biệt nơi con người Phanxicô: Từ một chàng trai con nhà giàu có và ham vui, bỗng chốc trở thành một con người nghiêm túc và sống đức tin Kitô giáo của mình một cách hết sức sốt sắng và sâu sắc.

Đây hẳn là một con đường sống vô cùng quan trọng và cần thiết, biểu lộ những nền tảng đức tin sâu xa của Phanxicô, vì nhờ thế, chàng đã chọn cho mình một lối sống hoàn toàn từ bỏ và khó nghèo, theo gương Chúa Cứu Thế xưa ở Na-da-rét.

Ở đây một câu hỏi được đặt ra là từ đâu thánh Phanxicô đã nhận chân được rằng, sống tinh thần khó nghèo là một bảo đảm cho phần rỗi và hạnh phúc vĩnh cửu, và do đó ngài đã chọn đời khó nghèo như một lý tưởng sống của mình?

Trong cuốn sách về tiểu sử thánh Phanxicô của ông, Linh mục Helmut Feld đã ghi nhận rằng, vào ngày 24.2.1208, ngày lễ kính thánh Tông Đồ Mathias, thánh Phanxicô đã đến cầu nguyện tại nhà thờ Portiuncula và lần đầu tiên ngài đã đọc rất kỹ càng và suy gẫm đoạn thứ 10 Phúc Âm theo thánh Mathêu. Đây là đoạn Phúc Âm đã nói lên tinh thần và cuộc sống nghèo khó của Chúa Giêsu và của các Môn Đệ Người. Cuộc sống nghèo khó của Chúa và của các Môn Đệ, vâng, tinh thần „khó nghèo Phúc Âm“ này, Phanxicô đã coi như là mẫu gương sáng chói và chân thực nhất giúp ngài thực hiện lý tưởng sống nghèo hèn của mình.(20)

2. Dòng Phanxicô nguyên thủy và lý tưởng nghèo khó

Khi chọn cuộc sống nghèo khó và cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu làm gương mẫu noi theo, (21) thánh Phanxicô và các anh em đồng lý tưởng đầu tiên của ngài (22) đã bắt đầu sống „đức nghèo khó Phúc Âm“ như là mệnh lệnh của Chúa vậy.

Một đoạn trong Di Chúc của ngài vào năm 1226 đã cho thấy thánh Phanxicô đã coi „sứ mệnh sống khó nghèo” mà Chúa đã truyền giao cho ngài như thế nào:

Sau khi Chúa đã trao ban cho cha vì anh em, không một ai đã chỉ cho cha phải làm những gì, nhưng chính Đấng Tối Cao đã mặc khải cho cha phải sống theo các giáo huấn Phúc Âm như thế nào. Và cha chỉ ghi lại đây một cách đơn sơ bằng ít lời, vì có Chúa chứng nhận cho cha.” (23)

Trong câu trích từ bản Di Chúc của thánh Phanxicô ở trên đây cho thấy rằng, thánh nhân hoàn toàn xác tín rằng “sứ mệnh thiêng liêng” sống tinh thần khó nghèo theo giáo huấn Phúc Âm là do chính Chúa truyền ban cho ngài.

Đối với thánh Phanxicô, những giáo huấn của Phúc Âm là cương lĩnh chính yếu và duy nhất không những hướng dẫn cuộc sống của ngài cũng như cuộc sống của các Tu Sĩ của ngài, nhưng còn là linh hồn của bản Tu Luật của Dòng, mà trước đó ba năm đã được Đức Thánh Cha chấp thuận.(24)

Tất cả những điều đó muốn khẳng định rằng, thánh Phanxicô đã chọn Phúc Âm làm Qui Luật tối thượng và duy nhất cho cuộc sống của mình cũng như của phong trào do ngài phát động. Ngoài Phúc Âm ra, ngài không tham chiếu bất cứ luật lệ nào khác nữa. Chẳng những thế, ngài còn cảnh cáo các Tu Sĩ của ngài không được đặt thêm luật lệ nào khác ngoài tuân giữ theo các Giáo Huấn của Phúc Âm.

Trong cuốn “Vita secunda sancti Francisci” (Cuốn tiểu sử thứ hai về cuộc đời thánh Phanxicô), Lm Thomas di Celano đã giới thiệu cho độc giả ít nhất là chín đoạn trình bày về sự quan trọng của “paupertas”, của sự nghèo khó, như là nguyên tắc quan trọng nhất trong cuộc sống các Tu Sĩ Dòng Phanxicô nguyên thủy, tức thời sơ khai ban đầu khi mới thành lập. Chẳng hạn trong chương “De laude paupertatis” (Tôn vinh đức nghèo khó), tác giả đã làm nổi bật vai trò quan trọng của tinh thần khó nghèo Phanxicô một cách đặc biệt.

Vâng, Lm Celano đã trình bày đức khó nghèo như là một cô dâu xinh đẹp hay như một người vợ hiền (uxori) của thánh Phanxicô, còn chính thánh Phanxicô tác giả lại coi như là người tình nhân (amator) tha thiết mê say vẻ kiều diễm của đức nghèo khó. Theo Lm Celano, vì người “vợ hiền” này, thánh Phanxicô đã từ bỏ tất cả, kể cả cuộc sống trong quá khứ thánh nhân cũng gác lại phía sau. Bởi vậy, thánh Phanxicô đã giới thiệu cho các Anh Em Hèn Mọn của ngài sự nghèo khó như là chuẩn độ của sự nên thánh (perfectionis viam).(25)

Dĩ nhiên, một điều rất có thể đã xảy ra, đó là Lm Thomas di Celano, một trong những nhân chứng và những người mới gia nhập phong trào thánh Phanxicô về sau này, chứ không phải cùng đồng khai sáng ra phong trào với thánh nhân. Vì thế, khi viết về tinh thần khó nghèo Phanxicô, rất có thể ông cũng đã sử dụng hay dựa theo lối viết văn tu từ học (Rhétorique) để làm cho tinh thần khó nghèo ấy trở nên sáng sủa và hấp dẫn hơn. Nhưng ở đây một điều chắc chắn là với một cuộc sống đầy khiêm tốn và nhất là luôn kết hiệp mật thiết với sự kính sợ và tình yêu Chúa, Lm Celano đã không thêm thắt hay bịa đặt ra những điều gì khác ngoài sự thật trong cuộc sống thánh Phanxicô.

Do tâm hồn ngài luôn cháy bừng lửa yêu mến sự khó nghèo như là lý tưởng sống cao cả và như là chuẩn độ cho nỗ lực nên thánh của mình, thánh Phanxicô đã trở thành người bạn thân tình của tất cả mọi nghười nghèo đói túng thiếu và các bệnh nhân phong cùi, mà ngài đã luôn tận lực an ủi và giúp đỡ họ theo khả năng cho phép.

Một dẫn chứng cụ thể về lòng yêu mến và sự săn sóc tận tình của thánh Phanxicô đối với những bệnh nhân phong cùi, người ta có thể tìm thấy trong “Legenda trium sociorum” (Huyền thoại ba người bạn).(26) Trong Huyền thoại về ba người bạn, hai sự kiện cụ thể đã được trình thuật về việc thánh Phanxicô đã đón tiếp các bệnh nhân phong cùi, cho họ tiền và đã trân trọng hôn tay họ như thế nào.(27)

Ở đây chúng ta cũng cần ghi nhận một điều là việc thánh Phanxicô hăng hái thương giúp đỡ những người nghèo khó và những người bị bệnh phong cùi, thì ngoài tình yêu chân thành ngài giành cho họ như cho chính những người anh em ruột thịt của mình, còn có một lý do khác nữa, đó là vì ngài muốn ganh đua với họ trong sự nghèo khó và sự khốn cùng. Về điểm này tác giả Edmund Weber đã viết: „Không ai có lòng bác ái hơn thánh Phanxicô. Ngài sẵn sàng trao vào tay một người nghèo khổ nào đó tất cả những gì ngài có. Nhưng ngài làm như thế là vì ngài muốn vượt hơn người nghèo ấy trong nỗi khốn cực và thiếu thốn, hầu chứng tỏ tình yêu của ngài dành cho „Bà Chúa Nghèo“ là nồng thắm nhất và không muốn có ai nghèo hơn ngài được nữa.“(28)

Trong truyện „Huyền thoại ba người bạn” người ta tìm gặp được nguồn sử liệu quan trọng về tinh thần khó nghèo Phanxicô thủa ban đầu. Theo nguồn sử liệu này, ý tưởng nghèo khó của thánh Phanxicô hoàn toàn đặt nền tảng trên „Imitatio Christi“, trên „sự noi theo gương Chúa Kitô“.(29)

Qua đó, chúng ta thấy rằng thánh Phanxicô và các Anh Em Hèn Mọn của ngài luôn hăng hái dấn thân hiện thực một cách tuyệt đối lý tưởng khó nghèo trong chính cuộc sống của mình, đến nỗi ngài đã ca tụng sự khó nghèo là „Domina paupertas“, là Bà Chúa Nghèo! Dựa theo lời Chúa dạy trong Phúc Âm (Lc 12,15) Luật Dòng Phanxicô trước kia còn cấm các Tu Sĩ không được động đến hay giữ tiền bạc bằng kim loại hay bằng giấy, vì theo ngài, họ „…không hề có nhu cầu quan trọng đến nỗi phải cần đến các thứ tiền ấy và hãy coi chúng như sỏi đá vậy.“(30)

Dĩ nhiên, chủ trương sống nghèo khó tuyệt căn như thế không tránh được những khó khăn trong cuộc sống hằng ngày. Ví dụ, vào năm 1208 thánh Phanxicô và các học trò đầu tiên của ngài nảy sinh tư tưởng đi hoạt động tông đồ tại các miền chung quanh để sưởi ấm lại đức tin Kitô giáo đang trên đường bị tha hóa vào lúc bấy giờ. Tuy nhiên, những cuộc truyền giáo ban đầu ấy đã thất bại hoàn toàn, vì do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trước hết, do thiếu phương tiện vật chất cần thiết để tổ chức một cách đầy đủ hơn. Tiếp đến, áo quần và cách ăn mặc của thánh Phanxicô và các Anh Em của ngài quá sơ sài và nghèo khổ khiến người nghe coi thường. Và sau cùng, cuộc sống hành khất, sống nhờ vả vào của bố thí của người khác qua việc đi gõ cửa từng nhà, đã làm người ta mất thiện cảm và mất tin tưởng.

Nhưng một năm sau đó, năm 1209, qua kinh nghiệm trên và nhất là số thành viên mới xin gia nhập phong trào đã tăng lên đáng kể, đặc biệt trong số đó có cả những người trí thức ăn học, các vị Linh mục, v.v…, nên công cuộc truyền giáo của các Anh Em Hèn Mọn được mở rộng ra khỏi biên giới nước Ý và đã mang lại những thành quả rất đáng khích lệ.

Trong giai đoạn sơ khởi này của phong trào Phanxicô, một biến cố quan trọng đáng ghi nhận nhất là buổi triều yết tư mà Đức Thánh Cha Innocenz III (1198-1216) đã ưu ái dành cho thánh Phanxicô và các Anh Em Hèn Mọn của ngài vào một ngày giữa Lễ Phục Sinh và Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống năm 1209 tại Roma. Trong dịp này Đức Thánh Cha đã chúc lành cho quan điểm của thánh Phanxicô về tinh thần nghèo khó cũng như phê chuẩn sứ mệnh của thánh nhân.(31)

Riêng đối với thánh Phanxicô và các Anh Em đồng chí của ngài, cuộc triều yết Đức Thánh Cha mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng, vì Đấng Đại Diện Chúa Kitô ở trần gian đã phê chuẩn con đường sống nghèo khó và sứ mệnh liêng thiêng của họ.(32) Bởi vì, với sự phê chuẩn này của Giáo Hội, các Anh Em Hèn Mọn, những thành viên của phong trào tu trì còn quá non trẻ và mới mẻ của thánh Phanxicô, càng được động viên và hăng hái thực hiện lý tưởng sống nghèo khó một cách xác tín hơn.

Đó là lý do khởi động Dòng Phanxicô, Dòng các Anh Em Hèn Mọn, một Dòng Tu rộng lớn và quan trọng vào bậc nhất của Giáo Hội, kể từ thế kỷ XIII và không ngừng phát triển cho tới ngày nay. Dưới đây chúng ta thử tìm hiểu thêm tinh thần nghèo khó Phanxicô trong thế giới hôm nay như thế nào.

(Còn tiếp)

_______________________

Chú thích:

1. Vào năm 1220, sau khi từ chức Bề Trên, thánh Phanxicô đã lui về miền núi Alverna thuộc miền Arezzo để sống đời ẩn tu. Ở đây, trong khi thánh nhân chìm sâu vào những suy niệm về cuộc khổ nạn của Chúa, ngài đã được thị kiến các dấu đanh rướm máu đầy đau đớn trên thân mình Chúa, thánh nhân vô cùng xúc động và lửa yêu mến Chúa bùng cháy lên dữ dội trong ngài. Bỗng nhiên, các dấu đanh của Chúa được chuyển sang thân thể ngài. Và bắt đầu từ đó, thánh Phanxicô đã âm thầm chịu đau đớn mang trên mình các dấu đanh của Chúa, mãi sau ngày ngài qua đời người ta mới khám phá ra các dấu đanh ấy. Và kể từ thánh Phanxicô Assisi, người đầu tiên được in năm dấu đanh Chúa trên mình, lịch sử những người mang năm dấu đanh được nhân rộng lên. Gần đây nhất là trường hợp thánh Padre Piô (1887-1968) ở Ý, và của bà Therese Neumann von Konnersreuth, Đức (1898-1962)

2. Năm 382 ĐGH Damascus I đã truyền cho thánh Hieronymus dịch thuật toàn bộ Kinh Thánh, gồm Cựu và Tân Ước, từ tiếng Do-thái và Hy Lạp ra tiếng La-tinh. Và sau ròng rã 20 năm cật lực làm việc, thánh Hieronymus đã hoàn thành công việc dịch thuật của mình một cách tốt đẹp vào năm 405 và đã trở thành bản Kinh Thánh chính thức được công nhận và được sử dụng trong toàn Giáo Hội Công Giáo với tên gọi là bản Kinh Thánh Vulgata hay là bản Kinh Thánh phổ thông.

3. Xem bản Vulgata: Tv. 69,6; Tv. 108,22 và 2Cor 8,9. Bản Kinh Thánh tiếng Việt: Tv. 68,6)

4. Bản KT Vulgata: Tv. 73,21; Tv. 85,1. Bản KT tiếng Việt: Tv. 86,1.

5. Xem Bản KT Vulgata: Mc. 10,46; Lc. 18,35.

6. Tên Sadduzäer (Xa-đốc), có lẽ xuất phát từ tên của Thượng Tế Sadduk. Phái Sadduzäer chối bỏ sự sống lại của con người sau khi chết, x. Mt 22,23-33.

7. Pharisäer trong tiếng Do-thái có nghĩa là những người đứng riêng ra, những người có chỗ đứng đặc thù và riêng biệt.

8. Trích theo Sartory, Thomas und Gertrude: Franz von Assisi. Geliebte Armut. Texte zum Nacdenken, Freiburg 1991, trang 90, Der Heilige Franziskus im „Lobpreis der Tugenden“.

9. trích trong: Sartory, Thomas und Gertrude: Franz von Assisi. Geliebte Armut. Texte zum Nachdenken. Freiburg 1991, trang 90, Der Heilige Franziskus im „Lobpreis der Tugenden“.

10. như trên, trang 89).

11. Dietmar Westemeyer: Franz von Assisi und die Gegenwart (Franz von Assisi und unsere Zeit), Münster 1946, trang 3-

12. Trong tiếng Ý là Francesco và tiếng Pháp là Francais. Nói cách khác, Phanxicô có nghĩa là người Pháp). Vì thế, suốt các năm tháng của tuổi trẻ cũng như tuổi thanh niên, thánh Phanxicô đã sống một cuộc sống hoàn toàn vô tư đầy đủ. (x. Helmut Feld: Franziskus von Assisi. München 2001, trang 18).

13. x. Helmut Feld: Franziskus von Assisi. München 2001, trang 18).

14. xem Helmut Feld: Franziskus von Assisi, trang 19.

15. xem Helmut Feld: Franz von Assisi, trang 20.

16. Ở đây chúng ta cũng nên nhớ rằng, hai cha con nhà Bernardone đã không hề ghét bỏ nhau. Trong câu chuyện „Huyền thoại ba người bạn“ đã kể lại rằng, ngay sau đó khi tận mắt chứng kiến cuộc sống nghèo khó của con, ông Pietro Di Bernardone đã thường xuyên đến thăm viếng và giúp đỡ Phanxicô cũng như các Anh Em Hèn Mọn của chàng.

17. Thomas di Celano, một Tu Sĩ Dòng Phamxicô và là người đầu tiên viết tiểu sử thánh Phanxicô vào khoảng 1190- 1260, chính thánh Phanxicô đã thu nhận Thomas di Celano gia nhập cộng đoàn các Anh Em Hèn Mọn của ngài.

18. Trích theo Helmut Feld trong: Franziskus von Assisi, trang 24.

19. Xem Helmut Feld: Franziskus von Assisi und seine Bewegung, Darmstadt 1994, trang 135.

20. x. HelmutFeld: Franziskus von Assisi, trang 37.

21. Dĩ nhiên, ngoài gương mẫu của Chúa Cứu Thế, thánh Phanxicô chắc chắn cũng đã tìm gặp được nơi thánh Bernard de Clairvaux (1090-1153), một nhà thần bí học và là vị cải tổ Dòng Xitô, một người dùng ý tưởng „cognitio Dei experimentalis“ (hiểu biết về Chúa qua trải nghiệm) để chống lại quan điểm „sola ratione“ (chỉ thuần lý) của triết gia Petrus Abälardus (1079-1142) thuộc phái kinh viện.

22. Những người cùng đồng quan điểm và đã xin gia nhập phong trào của thánh Phanxicô là những người rất khiêm tốn và tự gọi mình là „những anh em hèn mọn“. trước hết là các thầy Thomas di Celano, Bernardo di Quintavalle, Petrus Catanii và thầy Ägidius. Về sau còn thêm ba thầy khác cũng xin gia nhập.

23. Trích theo Miethke, Jürgen: Paradiesischer Zustand - Apostolisches Zeitalter - Franziskanische Armut. Religiöses Selbstverständnis, Zeitkritik und Gesellschaftstheorie im 14. Jahrhundert, in: Franz J. Felten u.a. (Hgg.), Vita Religiosa im Mittelalter. Festschrift für Kaspar Elm zum 70. Geburtstag (Berliner Historische Studien = Ordensstudien 13), Berlin 1999, S. 503.

24. Ở đây muốn nói đến ĐGH Honorius III (1216-1227), người vào ngày 29.11.1223 đã ký tên chấp thuận những đường lối hướng dẫn cuộc sống các Anh Em Hèn Mọn do thánh Phanxicô soạn thảo như là bản Tu Luật chính thức của Dòng.

25. x.Markus Schürer: Armut als Sinn und Zweck. Beobachtungen zur Wertigkeit der Armut im Selbstverständnis der frühen Franziskaner und Dominikaner, in: Gert Melville: Annette Kehnel (Hgg.), In proposito paupertatis. Studien zum Armutsverständnis bei den mittelalterlichen Bettelorden (Vita Regularis 13), Münster 2001, trang 84/85.

26. Ở đây muốn đề cập đến câu chuyện của các Thầy Dòng đáng yêu của thánh Phanxicô: thầy Leo, thầy Angelus và thầy Rufinus, những người được coi như là người bạn và cộng sự viên đầu tiên của phong trào do thánh Phanxicô khởi xướng-

27. x. Helmut Feld: Franziskus von Assisi và seine Bewegung, trang 121; Hay: Sartory, Thomas und Gertrude: Franz von Assisi. Geliebte Armut, trang 31-33, „Bekehrung und Verwandlung“.

28. Edmund Weber: Die Reformation des Franz von Assisi. Eine theologische Studie, trong: Andreas Mehl; Wolfgang Christian Schneider (Hgg.): Reformatio et Reformationes. Festschrift für Lothar Graf zu Dohna zum 65. Geburtstag (THD-Schriftenreihe Wissenschaft und Technik 47), Darmstadt 1989, trang 67.

29. Về ý tưởng sống nghèo để bắt chước Chúa đều được những tác giả viết tiểu sử thánh Phanxicô nhất trí. Lm Celano giới thiệu hình ảnh cuộc sống Dòng Phanxicô trong lược khảo của ông về các sự kiện lạ lùng như là „Dấu chỉ của một thời đại các vị tông đồ mới“, một dấu chỉ đã giúp người ta tái khám phá ra „sự hoàn thiện của Giáo Hội tiên khởi“. Cả thánh Bonaventura cũng cho rằng cuộc sống khó nghèo của các Tu Sĩ Phanxicô thủa ban đầu là hoàn toàn rập theo gương mẫu cuộc sống khó nghèo của Chúa Kitô và của các Môn Đệ Người. Tuy nhiên, thánh Thomas Aquino, nhà thần học và triết gia vĩ đãi thuộc Dòng Đa-minh, lại không đồng quan điểm đó. Thánh Thomas Aquino cho rằng những người giàu có vẫn hoàn toàn có thể sống theo gương khó nghèo của Chúa xưa ở Na-da-rét được. Ví dụ Tổ phụ Abraham xưa là một người giàu có, nhưng đồng thời cũng là một nghèo khó, vì lòng ông không hề dính bén vào của cải và những gì ông chiếm giữ, cả đến đứa con trai yêu dấu duy nhất, ông vẫn sẵn sàng dâng cho Chúa, chứ không tiếc. x. Helmut Feld: Franziskus und seine Bewegung, trang 192.

30. Trích theo Thomas und Gertrude Sartory: Franz von Assisi. Geliebte Armut, trang 64-65, „Geldentwertung.

31. x. Helmut Feld: Franziskus und seine Bewegung, trang 167tt.

32. x. Thật ra, ĐGH Innocenz III đã mau chóng phê chuẩn tu luật của phong trào do thánh Phanxicô khởi xướng, là vì ngài rất muốn cho phong trào hoàn toàn nằm dưới thẩm quyền của Giáo Hội. Chúng ta biết rằng, vào lúc bấy giờ có rất nhiều lạc giáo nổi lên chống đối Đức Thánh Cha và chia rẽ Giáo Hội, đặc biệt là hai lạc giáo Waldenser và Humiliaten.

Thứ Ba, 19 tháng 2, 2013

Vị Giáo Hoàng cuối cùng hay Khởi đầu Kỷ Nguyên Mới?

Vị Giáo Hoàng cuối cùng hay Khởi đầu Kỷ Nguyên Mới?
Nguyễn Đức Sách2/17/2013  (VietCatholic)

 
Theo Những Lời Tiên Tri của thánh Malachia

1. Từ ngày 12.2.2013 vừa khi Đức Giáo Hoàng Benedicto 16 tuyên bố ý định từ nhiệm, những lời ‘Tiên tri’ về ngôi vị Giáo Hoàng lại tràn ngập tin tức và bài vở trên truyền thanh, truyền hình, trên báo chí, và nhất là trên internet.

Tất cả đều là những bài cũ, lặp lại luận điệu cũ. Tài liệu được nhắc tới nhiều nhất là quyển ‘Những Lời Tiên tri về Giáo Hoàng’ của thánh Malachia. Quyển nầy có 111 câu về 111 Giáo Hoàng và câu kết. Câu kết nầy đã gây hoang mang không ít, đặc biệt khi Đức Benedicto 16 đã là Vị Giáo Hoàng thứ 111 của Những Lời Tiên Tri.

Câu Kết đó là: “Trong cơn bách hại cuối cùng, Tòa Thánh Roma được trị vì bởi ‘Phêrô dân Roma’, Ngài chăn dắt đoàn chiên qua nhiều gian truân, do đó Thành Phố Bảy Đồi sẽ bị tàn phá, và Đấng Thẩm Phán đáng kính sợ sẽ phán xét dân Ngài. Hết.”

Nguyên văn: “In persecutione extrema S.R.E. sedebit Petrus Romanus, qui pascet oves in multis tribulationibus: quibus transactis civitas septicollis diruetur, et Judex tremedus judicabit populum suum. Finis.”

Câu trên đã được nhiều phe phái, đặt biệt những tổ chức chống Giáo Hội Công Giáo Roma, mặc tình giải thích, xuyên tạc, và phổ biến rầm rộ.

Đang khi đó, vì thường không tin vào những lời tiên tri bói toán, giới Công Giáo hầu như làm ngơ. Nhưng giáo dân bình thường thì ngày càng thêm hoang mang và giao động trước những tuyên truyền được coi là ‘nói có sách, mách có chứng’. [Sách lại do một ông Thánh Công giáo viết!].

* *

2. Quyển Sách Tiên Tri và Tác Giả.

- Phần Những Lời Tiên tri về Giáo Hoàng đã được in và phổ biến năm 1595 trong bộ Lịch sử Dòng Benedicto của Arnold de Wyon, [tên bộ sách là Lignum vitae, Ornamentum et decus Ecclesiae, với phần Tiên tri Prophetia S. Malachiae, Archiepiscopi, de Summis Pontificibus]. Bộ sách hiện vẫn còn.

Trong 111 Vị, mỗi Vị được Tiên báo bằng 2 hoặc 3 chữ, có 7 Vị được 4 chữ.

Trong bộ sách, bản văn Những Lời Tiên tri về Giáo Hoàng được ghi tác giả là một vị Tổng Giám mục người Ái nhĩ Lan (Irish) tên Máel Máedóc Ua Morgair, được la tinh hóa thành Malachia. Ông sống thời 1094 - 1148, và được chính thức phong thánh năm 1199. Vì vậy phần Tiên tri về Giáo Hoàng được cho là của Thánh Malachia.

- Theo bộ sách, câu đầu tiên được tiên tri để chỉ Đức Giáo Hoàng Celestino II, Giáo Hoàng năm 1143-1144.

Theo năm xuất bản 1595, thì sau năm 1595, Vị Giáo Hoàng đầu tiên được tiên báo là Đức Leo XI, Giáo Hoàng năm 1605, Vị thứ 78 trong 111 Vị.

- Nhiều trào lưu đã cố ý dựa vào khoảng cách giữa câu tiên tri thứ nhất (năm 1143) và năm in sách, 1595, mà cho rằng có sự bịa đặt của hậu sinh. Những người khác lại cho rằng tác giả Malachia là được gán ghép, nên không đáng tin. Nhiều người khác lại dựa vào Malachia đã được phong thánh mà cố quyết là Giáo hội không thể chối bỏ những lời tiên tri và những diễn giải (võ đoán) của chính họ. Và nhiều cáo buộc khác.

Sau đây là một số nhận định.

3. Giá trị Bản Văn.

- Trên nguyên tắc, khi một bản văn đã được phổ biến thì bản văn đó không còn lệ thuộc tác giả. Tự nó, bản văn có một giá trị độc lập, dầu tác giả của nó là ai.

Vì vậy, Thánh Malachia có phải là tác giả thực sự của 112 câu Tiên tri đó hay không, chuyện đó không quan trọng cho giá trị của Bản văn. Không cần nhiều lời.

Bản văn Tiên tri về 111 Giáo Hoàng, và câu kết, đã phổ biến từ năm 1595. Vậy thì chỉ tìm hiểu tính cách xác đáng của những câu Tiên tri đó kể từ năm 1595 tới nay. Không cần bận tâm phần trước.

- Từ sau năm 1595 tới nay, ta có 34 câu Tiên tri về những Vị sẽ nối tiếp nhau làm Giáo Hoàng Roma. Tính tới hôm nay, trước ngày 1.3.2013, đã trọn 34 câu cho 34 Vị Giáo Hoàng nối tiếp nhau lên ngôi trong vòng 408 năm qua, từ Vị lên ngôi năm 1605 tới Vị từ nhiệm ngày 28.2.2013.

- Với Câu Kết, có vẻ như Tác giả nói về Vị Giáo Hoàng thứ 112. Tuy nhiên, cách thức, văn phong, đều khác hẳn. Trong 111 câu trên, câu dài nhất là 4 chữ. Câu kết nầy lại gồm 27 chữ. Trong 111 câu trên, mỗi Vị Giáo Hoàng tương lai được tiên báo bóng gió bằng cách chơi chữ... Câu kết nầy lại chỉ gọi thẳng tên Vị Giáo Hoàng đang trị vì là Petrus Romanus, ‘Phêrô dân Roma’. Phêrô là tên của Vị Giáo Hoàng đầu tiên, do chính Đức Giêsu đặt, và chưa có Giáo Hoàng nào dám ‘lộng quyền’ tự chọn tên đó.

Như vậy, Câu Kết nầy không tiên báo về Vị Giáo Hoàng sẽ được chọn sau ngày 28.2.2013.

* *

4. Độ chính xác của Những Lời Tiên tri về Giáo Hoàng.

Trong 34 Lời Tiên Báo liên tục cho 408 năm sau khi phổ biến, dầu việc giải thích đôi khi lắc léo, hình như không có câu nào không giải thích được.

Các lời giải thích hầu hết dựa vào một hoặc hai đặc điểm của vị Giáo Hoàng tương lai. Các đặc điểm thường là Dòng họ, Nơi sinh, Huy hiệu, hoặc Chức vụ trước khi được bầu thành Giáo Hoàng. Thực ra, đây cũng chính là những đặc điểm để giới thiệu một nhân vật.

Thí dụ về các Vị gần đây nhất:

Đức Gioan XXIII, 1958-1963, đã được tiên báo: ‘Chăn chiên và Thủy thủ’: Pastor et Nauta. Thực ra, trước khi là Giáo Hoàng, ngài là Giáo chủ (chăn chiên) của thành phố nổi Venice (thủy thủ). Hơn nữa, trong khi ở Venice, Ngài thành lập Hội Đồng Đại Kết, với huy hiệu có Thánh giá và Chiếc tàu.

Đức Phaolô VI, 1963-1978, có huy hiệu với 3 bông Huệ. Huệ là loại hoa được giới tu sĩ quý trọng nhất. Ngài được Tiên báo là ‘Hoa của muôn hoa’: Flos Florum.

Đức Gioan Phaolô II, 1978-2005, đến từ giai cấp Lao Động của Cộng sản Đông Âu. Vì với cộng sản, Lao động trở thành giai cấp, và vì Ngài từ Đông Âu, nên được báo là ‘Từ Lao động của Mặt Trời’: De Labore Solis.

* *

5. Tính Chất tổng quát của các Lời Tiên tri.

Trước hết, cần xác định tính chất của Những Lời được coi là ‘Tiên Tri’.

Cách tổng quát, các Lời Tiên Tri gồm hai loại:

Loại Tiên tri có tính chất Tôn giáo: các Lời Tiên tri nầy được ghi nhận là do Đức Giáo Chủ Khai Đạo, hoặc do một số vị được Tôn giáo đó chính thức công nhận. Bên Công giáo có các Lời Tiên tri trong Sách Thánh (Cựu Ước và Tân Ước), hoặc do Đức Mẹ hiển linh... Loại nầy liên hệ trực tiếp tới lòng tin của tín hữu.

Loại 2 gồm tất cả mọi ‘Lời Tiên tri’ khác. Loại nầy không có tính chất tôn giáo, và không liên hệ trực tiếp, cũng không có giá trị đối với tôn giáo.

Nguồn gốc của những Lời Tiên tri nầy thường do những người tự cho mình có khả năng, có giác quan hoặc hiệp thông đặc biệt. Vì vậy, ta có đủ loại ‘Lời Tiên tri’, về mọi phương diện, mọi tầm cở, và nhất là đủ mọi cấp độ giá trị, đủ mọi cấp độ chính xác... do đủ hạng người. Ta có từ Trạng Trình, Nostradamus, Malachia, tới đủ loại tiên tri, bói toán, chiêm tinh, huyền bí, ngoại cảm, đồng bóng, thần giao cách cảm, vân vân và vân vân... kể cả những người thấy mình tình cờ đoán trúng vài sự kiện.

* *

6. Tính Chất Bản văn Những Lời Tiên tri về Giáo Hoàng.

Bản văn Những Lời Tiên tri về Giáo Hoàng không hề được Giáo hội Công giáo công nhận.

Tuy nhiên, vì sự chính xác, cũng như về tầm độ các sự kiện, đặc biệt vì tính liên tục trong thời gian dài suốt mấy trăm năm, Tác giả của Những Lời Tiên tri về Giáo Hoàng, tạm gọi theo thói quen là Thánh Malachia, phải được kể ngang hàng với hai Vị nổi tiếng là Nostradamus (1503-1566) và Đức Trạng Trình (1491-1585).

Tuy không biết chắc về Tác giả của Những Lời Tiên tri về Giáo Hoàng, nhưng để đạt được trình độ thông thiên đó, Nostradamus và Đức Trạng Trình đã tinh thông về Khoa Chiêm Tinh.

* *

7. Khoa Chiêm Tinh phương Tây.

Vì Malachia là người phương Tây, ta nói sơ về Khoa Chiêm Tinh phương Tây.

Khoa Chiêm Tinh nghiệm đoán ảnh hưởng của ‘vận hành các tinh hệ trong Vòng Hoàng Đạo’ đối với trái đất, đối với nhân loại, và đối với cuộc sống của từng con người.

a. Vòng Hoàng Đạo: Theo tài liệu, cách đây gần 5.000 năm, dân Babylon đã chia vòng bầu trời quay quanh trái đất thành 12 phần bằng nhau. Các tinh tú trong mỗi phần lại được tưởng tượng thành một hình dạng riêng, gọi là tinh hệ, và theo đó mà đặt tên cho phần trời.



Ví dụ: tinh hệ Song Sinh trên bầu trời và hình ảnh tưởng tượng của con người.

Vòng Hoàng đạo gồm 12 Tinh hệ.


b. Mười Hai Kỷ Nguyên. Vận hành một vòng của Vòng Hoàng Đạo quanh trục Xuân phân được gọi là Năm Thiên văn. Năm Thiên văn dài bằng 25.920 năm của Trái đất.

Năm Thiên văn cũng được chia theo 12 phần, và được gọi là 12 Tháng Thiên văn, hoặc 12 Kỷ Nguyên. Một Kỷ Nguyên dài 2160 Năm Trái đất.

Tuy nhiên, vì các tinh hệ lớn nhỏ khác nhau, và vì không có ranh giới giữa các tinh hệ, nên các Kỷ Nguyên xê dịch giữa 1800 tới 2300 năm, thay vì 2160 năm.

Vì vậy, và cũng vì thời khoảng đó quá dài đối với đời sống từng con người, nên mỗi Kỷ Nguyên đã thường được đơn giản hóa thành 2000 năm.

Nói cách đơn giản, theo chiêm tinh phương Tây, hiện nay

Từ năm 2000 tới năm 4000 dl, là Kỷ Nguyên Bảo Bình.
2000 năm vừa qua là Kỷ nguyên Song Ngư, hai con cá.
Trước đây 3000 và 4000 năm là thời Dương Cừu, con trừu, chiên.
Trước đây 5000 và 6000 năm là thời Kim Ngưu, bò vàng.

* *


8. Các Kỷ Nguyên và Cuộc sống Con Người.

Nhìn tổng quát 6000 năm vừa qua, ta có thể thấy một số ảnh hưởng của các tinh hệ, của các kỷ nguyên, trong các nền văn hóa xưa.

a. Kỷ nguyên Kim Ngưu, Bò Vàng, 4000-2000 ttl, cách đây 5 và 6 ngàn năm trư

Ở Ai cập, nhiều tấm đá thời 3100 ttl, [cách đây hơn 5000 năm], vào giữa thời Kim Ngưu, có khắc hình những vị Vua đầu Bò. Đây cũng đã là thời cường thịnh của Kỷ nguyên nầy.

Những con Bò có dấu hiệu đặc biệt cũng đã được dân Ai Cập thờ kính như hiện thân của Đấng Tạo hóa. Sách Thánh Kitô giáo cũng có nhắc tới.



Đang khi đó, cũng trong kỷ nguyên nầy, Ấn Độ cũng đã thờ Bò, và còn lưu truyền trong đạo giáo và văn hóa tới hiện nay.

Ở phương Đông, vào thời nầy, dân Tộc Việt đã phát minh ra kỹ thuật dùng trâu kéo cày, cải tiến hoàn toàn nghề trồng lúa nước, và cuộc sống, văn hóa...

b. Kỷ nguyên Dương Cừu là thời của Trừu, Chiên, 3 và 4 ngàn năm trước, từ năm 2000 tới năm 1 ttl.

Ở thời Dương Cừu, Trừu trở thành vị Thần bảo vệ các Vua Ai Cập. Hiện nay, tại cố đô Luxor của Ai Cập, vẫn còn con đường với hơn 3000 tượng ‘thần Trừu bảo vệ Vua’ khổng lồ.



Đang khi đó, vào giữa thời Dương Cừu, thoát ly từ Ai Cập, dân Do Thái thành lập quốc gia, và dùng Trừu làm lễ vật trung gian liên lạc với Thượng Đế. [Dân Do Thái có tích Môisen phá hủy Bò Vàng (thời Kim Ngưu), và khởi đầu thời cường thịnh của kỷ nguyên Dương Cừu].

Vào cuối thời Dương Cừu, Đức Giêsu cũng được gọi là Con Chiên của Thiên Chúa, và làm Trung gian Cứu chuộc Nhân loại.

Cũng thời kỳ nầy, ở vùng Thiểm Tây khô cằn giá lạnh phía tây Hoàng Hà, dân du mục, nuôi dê trừu, đã tụ tập. Năm 1046 ttl, vào giữa kỷ nguyên Dương Cừu, họ thành lập Nhà Chu ở vùng Sông Vị. Họ trở thành tộc Hoa, với nền văn hóa du mục tiêu biểu.

c. Kỷ nguyên Song Ngư. 2000 năm vừa qua là thời Song Ngư, 2 Cá. Theo khoa chiêm tinh, đây là thời của Đức Giêsu, với biểu tượng là Con Cá. [Nơi đây chỉ nói về khoa chiêm tinh, không liên hệ tới tôn giáo. Biểu tượng thực sự của Kitô giáo là cây Thánh Giá, với nhiều ý nghĩa cao siêu, huyền diệu khác].

Theo giải thích, sở dĩ có biểu tượng con Cá, vì vào thời Kitô giáo phát triển ở vùng ngôn từ Hy lạp, những chữ đầu của Danh hiệu Đức Giêsu, ‘Ιησούς Χριστός Θεού Υιός Σωτήρ’, ráp lại thành chữ ΙΧΘΥΣ [Íchtuýs]. ΙΧΘΥΣ có nghĩa là con Cá.

Viết theo mẫu tự la tinh: Iesous Christos Theou Uios Soter. Nghĩa là ‘Giêsu Kitô Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Tinh’. [Theo truyền thuyết, vào thời kỳ đầu, vì việc giữ Đạo Kitô bị ngăn cấm, Kitô hữu đã dùng hình con Cá làm mật hiệu nhận ra nhau].

Nhiều hình ảnh Đức Giêsu cũng được vẽ trong khuôn hình Cá.

[Cũng như Môisen phá hủy Bò Vàng (thời Kim Ngưu) và khởi đầu thời cường thịnh của kỷ nguyên Dương Cừu, thì Đức Giêsu, là con Cừu của Thiên Chúa, đã chết để kết thúc kỷ nguyên Dương Cừu, và sống lại để khai lập kỷ nguyên Song Ngư].

* *

9. Hàm Ý Chiêm Tinh trong Những Lời Tiên tri về Giáo Hoàng.

a. Những người biết về Chiêm tinh phương Tây đều biết năm 2000 dl là năm được đoán định cho giao thời giữa hai kỷ nguyên Song Ngư và Bảo Bình.

Vì vậy, không phải tình cờ mà Nostradamus đã nhấn mạnh quá đáng tới năm 2000 dl vừa qua. Đối với Ông, chuyện năm 2000 sẽ xảy ra sau Ông hơn 400 năm. Và sao nó to lớn, mập mờ, xáo trộn. Mọi sự như kết thúc, như giao tranh, như hỗn loạn, như hoang tàn, ghê rợn... Vì vậy Ông đã diễn tả quanh năm 2000 bằng những đoạn sấm đầy xáo động, mông lung, hỗn loạn.

Điều đáng tiếc là cách diễn tả của Nostradamus đã khiến con cháu Ông hiểu lầm. Vì chỉ nhìn cục bộ, vì không đặt những lời Tiên tri của Nostradamus trong toàn bộ chiêm tinh trời đất mênh mông vô tận, nên con cháu Ông đã diễn giải sai lạc thành năm 2000 sẽ Tận thế. - Nostradamus còn nói về những năm 3000, 4000... thì sao lại có thể tận thế vào năm 2000?

Sự sai lầm còn được tô đậm thêm, để con cháu Ông khai thác trục lợi... Những diễn giải sai lạc đã gây tai hại ở nhiều phương diện cho vô số người. Việc chuẩn bị rầm rộ cho ‘Tận thế’ vào năm 2000 sẽ luôn là một hiện tượng cuồng dị giữa những kiến thức đương đại về vũ trụ bao la và trường kỳ [tính bằng triệu, bằng tỷ năm].

Thực ra, dưới khía cạnh Chiêm tinh, tất cả những gì Nostradamus nhấn mạnh cũng chỉ để diễn tả cái nhìn và tâm trạng của Ông khi Ông hoảng loạn trong ‘cảm nhận’ về thời cuối cùng của Kỷ nguyên Ông đang sống. [Theo nhiều tài liệu, khi những ‘nhà Tiên tri cấp nhỏ’ loan báo về ngày ‘Tận thế’ cận kề, thì đó chính là cảm nhận về ngày ‘Tận số’ của chính họ].

b. Cũng không phải tình cờ mà Những Lời Tiên tri về Giáo Hoàng cũng kết thúc vào chính thời kỳ cuối cùng kỷ nguyên Song Ngư nầy.

Cảm nhận hoảng loạn của Vị Đại Tiên tri Nostradamus về ngày cuối cùng của Kỷ nguyên Ông đang sống, cũng chính là cảm nhận của Malachia khi Malachia viết câu cuối cho Kỷ nguyên Song Ngư, Kỷ nguyên của Đức Giêsu. Hai người chỉ khác nhau ở chỗ: Nostradamus tiên tri về đủ mọi thành phần, nên Ông đã bị diễn giải cho ‘toàn thể nhân loại’, cho ‘Tận thế’. Malachia chỉ chú tâm tới các Vị Giáo Hoàng, nên đã bối rối khi diễn tả cảnh Giáo hội, Giáo Hoàng và Giáo đô Roma.

Ta đọc lại câu kết của Malachia:

“Trong cơn bách hại cuối cùng, Tòa Thánh Rôma được trị vì bởi ‘Phêrô dân Rôma’, Ngài chăn dắt đoàn chiên qua nhiều gian truân, do đó Thành Phố Bảy Đồi sẽ bị tàn phá, và Đấng Thẩm Phán đáng kính sợ sẽ phán xét dân Ngài. Hết.”

Trong khi 111 câu trước chỉ có dài nhất là 4 chữ bóng gió, thì Câu Kết 27 chữ nầy là một đột biến trơ trẻn, xô bồ, quái dị.

Thế nhưng, câu nầy cũng diễn tả tâm trạng hỗn loạn giống như của Nostradamus khi Nostradamus nói về thời Cuối Kỷ nguyên. [Còn được gọi là Thời Mạt Pháp, Hạ Nguơn].

Theo đúng văn phong, Malachia không dài dòng như Nostradamus. Nhưng mỗi chữ, từng chữ của Malachia là một bản Tóm Lược của tất cả những cuối thời, của tất cả những hỗn loạn, những quỉ vương, những thế chiến, những thống khổ, những động đất, những tàn phá, những tận diệt, những phán xét... do những diễn giải cường đại và uy hiếp từ Sấm Nostradamus, cho năm đáng thương 2000 dl vừa qua.

Nhưng rồi năm 2000 đã qua đi trong êm thắm. Những hỗn loạn trên chỉ là cách diễn tả, và được diễn giải phóng đại, phản ứng của Nhà Tiên Tri trước những cảm nhận hoảng loạn về buổi kết thúc một Kỷ nguyên. Tất cả đã không xảy ra trên thực tế.

c. Như vậy, qua ý thức năm 2000 là năm chuyển tiếp, ta đọc Lời Tiên Tri của Malachia trong cảm nhận chập choạng của thời chuyển tiếp: giữa cảnh vừa nhớ Giáo Hoàng tiên khởi cũ, vừa có Giáo Hoàng tiên khởi mới, lại vừa có thêm Giáo Chủ.

- “Tới đây là thời cuối cùng. Tòa của Phêrô, (Toà của Vị Giáo Hoàng Song Ngư suốt 2000 năm), lại do một Phêrô Mới trị vì. (Sao lại thêm một Giáo Hoàng tiên khởi mới? Đúng là loạn lạc! Như vậy,) Đoàn chiên sẽ chịu nhiều gian truân, Giáo Đô thần thánh sẽ bị tàn phá! (Nhưng sao cũng có Giáo Chủ? Vậy là) Giáo Chủ đang thẩm kết mọi sự! Thế là Hết!”

Quả thực là Hết.

Nhưng chỉ hết một Kỷ Nguyên!

d. Theo kinh nghiệm của nhân loại, những tác động tới Tâm Hồn Con Người sẽ không bao giờ qua đi.

Kỷ nguyên Kim Ngưu đã qua hơn 4000 năm, nhưng nền văn hóa nông nghiệp Lúa nước vẫn phát triển cho nhân loại, nhưng hơn một tỷ người Ấn Độ vẫn thờ Bò Thần của họ.

Kỷ nguyên Dương Cừu đã qua hơn 2000 năm, nhưng ảnh hưởng nền văn hóa du mục vẫn còn đây, nhưng Do Thái giáo vẫn còn đó, nhưng Kitô giáo vẫn nối tiếp Do Thái giáo. [Do Thái giáo là Cựu Ước, Kitô giáo là Tân Ước, mà cũng bao gồm Cựu Ước].

Kỷ nguyên Song Ngư đang qua, nhưng làm sao mất được hơn một tỷ tín đồ? Vậy thì làm sao có thể mất được Giáo đô, làm sao có thể không còn Giáo Hoàng? Dầu có qua thêm 4000 năm nữa, (như kỷ nguyên Kim Ngưu), thì số tín đồ lại càng gia tăng.

Vấn đề chỉ là một Kỷ nguyên mới, Kỷ nguyên Bảo Bình, đang khởi đầu.

* *

10. Kỷ nguyên Bảo Bình là gì?

Thực ra, không chỉ Chiêm tinh phương Tây, mà nhiều Nhà Tiên Tri lớn, và những Tôn giáo lớn, cũng đều đã chờ đón Kỷ nguyên Bảo Bình đang tới.

Đã có nhiều tiên báo tập trung quanh năm 2000 dl, là năm được coi sẽ kết thúc Kỷ nguyên Song Ngư và khởi đầu Kỷ nguyên Bảo Bình.

Theo một số truyền thuyết, thì năm 2000 dl cũng là lúc Đức Giêsu Phục Lâm, xuống thế lần thứ hai. Có nhiều giải thích truyền thuyết nầy.

Giải thích thông thường nhất là Đức Giêsu sẽ xuống phán xét loài người. Như vậy, có nghĩa là ngày Tận thế. Có giải thích Ngài trở lại trần gian để chỉnh đốn công cuộc Cứu Thế của Ngài, để tuyển chọn số tín đồ thích đáng cho một cuộc sống mới... - Đây cũng là căn cội của các tiên báo về đại họa tận diệt vào năm 2000 dl vừa qua.

[2. Hiện nay là thời Đức Phật Di Lặc ra đời. Câu niệm thường nghe là ‘Nam mô Đương lai Giáo chủ Di Lặc Tôn Phật’. Ngài sẽ đem hạnh phúc và thịnh vượng cho Nhân loại. - Tượng Ngài một tay cầm hồ lô, tượng trưng cho yên lành, một tay cầm viên ngọc, tượng trưng cho thịnh vượng. Miệng và mắt tươi cười, yêu đời. Tai lớn là sống lâu. Bụng lớn là đại phúc, phước lớn. Đứng chân cao chân thấp là an nhiên thoải mái, không câu nệ... Ngài đang tới. Thời Bảo Bình đang tới.

3. Theo Đạo Cao Đài, nay là Thời của Hội Long Hoa, thời tuyển lựa của Hạ Nguơn sắp qua, thời Thượng Nguơn đang tới.

4. Theo sấm Đức Trạng Trình, nay cũng là thời Thánh Chúa thịnh trị. - Bài sấm Rồng Nằm Bể Cạn có 2 câu: ‘Chó nọ vẫy đuôi mừng Thánh Chúa, Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày’. Hoặc ‘Đời nầy Thánh Kế vi Vương, Gồm no đạo đức văn chương trong mình’.]


5. Theo sấm Nostradamus, đang xuất hiện một vị Vua Mới, một cách cai trị mới. Các nhà giải đoán phương Tây coi Vua Mới nầy là vị Khai sáng Kỷ nguyên vàng son cho nhân loại. - Đoạn sấm 2/7: ‘Pour eux neuf Roy, nouvel edict leur forge’. Đối với họ, đây là vị Vua mới, đạo luật mới rèn luyện họ.

* Như vậy, Kỷ nguyên Bảo Bình, từ năm 2000 tới năm 4000 dl, là thời Nhân loại được hưởng Thanh bình, Thịnh vượng, Đồng tâm, và Hạnh phúc đích thực, như được các Giáo Chủ giáo hóa, như thời các Thánh Chúa thịnh trị, như mọi người trông chờ.

* *

11. Hãy Reo Mừng!

Như vậy, qua chiêm tinh, theo Tiên tri Malachia, và theo hiện tình thời sự, kỷ nguyên Song Ngư chính thức kết thúc tối ngày 28.2.2013. Ngày 1.3.2013 chính thức khai nguyên Kỷ nguyên Bảo Bình.

Những diễn giải bi quan về câu kết của Malachia cũng sẽ êm thắm qua đi, như những diễn giải kinh hoàng về Sấm Nostradamus cho năm 2000 vừa qua.

Mọi sự vẫn tiếp diễn trên hành trình thăng tiến của nhân loại. Giáo Hội Công Giáo vẫn yên lành đem Sứ Điệp Tình Yêu của Thiên Chúa đến cho Mọi Người.

Nhân loại đang hân hoan bước vào một Kỷ Nguyên mới, Kỷ Nguyên Thanh bình, Thịnh vượng, Đồng tâm, và Hạnh phúc đích thực.

Hãy Reo Mừng!

- Xin lạy mừng Đức Tân Giáo Hoàng năm 2013. Ngài đầy Ơn Phước, và Ngài sẽ yên lành chăn dắt Đàn Chiên Chúa trong thịnh vượng.

Chúa Chiên Lành đã thương dẫn Cha đi. Cha còn sợ chi?

Xin dâng Lời Cảm Tạ!

Ngày 14.2.2013